Những cái chết tức tưởi của nhà văn,
chuyện bây giờ mới kể [Kỳ 3]
THÁI DOÃN HIỂU
Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt
Nam
nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn.
Khái
Hưng tên thật là Trần Dư, nhưng ông thêm chữ Khánh thành Trần
Khánh Dư để giống vị tướng Trần Khánh Dư đời Trần.
Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Dư.
Ông
sinh năm 1896,
xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng.
Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.. Thân phụ ông giữ
chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em
ruột ông là nhà văn Trần Tiêu.
Khái
Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau
khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở
đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy
ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về
nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở
thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là
người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh.
Khái
Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập.
Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm1933 thì tuyên bố
chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo
Cùng
thời gian đó, Tự Lực Văn Đoàn ra tờ báo Phong Hóa.
Về sau khi Phong Hóa bị đóng cửa thì
tờ Ngày Nay thay
thế. Cùng với báo, Tự Lực Văn Đoàn còn có Nhà
xuất bản Đời Nay. Toàn bộ tác phẩm của Khái Hưng đều do Ngày Nay và Đời Nay công bố.
Là
một trong những cây bút chính của nhóm, tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng Hồn bướm mơ tiên (1933) là tiểu
thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Tiểu thuyết cuối cùng của ông là Thanh Đức (1943) và cũng là tiểu
thuyết cuối cùng của nhóm. Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai tiểu
thuyết là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra đời chung tập
truyện ngắn Anh phải sống cùng
năm1934.
Giống
như các tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn khác, tác phẩm của Khái Hưng thường đề cao
tình yêu tự do, chống lại các lễ giáo phong kiến,
ít nhiều mang tính cải cách xã hội. Khái Hưng cũng có viết một số vở kịch,
thường chỉ một hồi, nhưng ít được công diễn. Trong những năm 1935 đến 1940, Khái Hưng là nhà văn
được nhiều thanh niên thành thị ưa chuộng. Khái Hưng cùng là một dịch giả.
Bài Tình tuyệt vọng ông dịch từ thơ của Félix Arvers rất
nổi tiếng.
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
Trong
thời gian Đệ nhị thế chiến, giống như Nhất Linh,
Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị. Do tham gia Đảng Đại Việt dân chính thân
Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945, Khái Hưng được trả
tự do. Ông cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách cho
ra tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới.
Sau Cách mạng tháng Tám, Khái Hưng có viết một loạt
bài báo, truyện ngắn, kịch ngắn trên các báo của Việt Nam Quốc dân Đảng.
Khái
Hưng mất năm 1947.
Một số tài liệu cho rằng Khái Hưng bị Việt Minh bắt
giam tại Liên Khu 3 (Lạc Quần, Trực Ninh)
rồi đem xử tử hình ở bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Theo ông Nguyễn Tường Triệu, con nuôi Khái Hưng, tiết lộ Khái Hưng mất tích sau
Tết Ðinh Hợi (22/1/1947)
Hồi
còn dạy học ở thị trấn Vĩnh Bảo, Hải Phòng năm 1973, tôi (TDH) đã nghe chính
miệng những du kích Thái Bình - những kẻ thừa hành bản án. Họ kể rằng họ được
lệnh bỏ rọ trắn xuống sông nhà văn Khái
Hưng – chủ soái của Tự lực Văn đoàn. Kẻ
hành quyết kể lại thái độ của Khái Hưng rất bình thản, ung dung chui vào rọ nứa
cho những kẻ chân đất đầu trần buộc giây, gài đá, vần xuống sông. Ở dưới đáy
sông sặc nước, chắc nghẹt thở lắm... Khái Hưng chết chỉ vì ông là đảng viên
đảng Đại Việt !
Thế
mà, mới đây, Vu Gia người miền Trung, sống ở Sài Gòn viết một cuốn sách khảo
cứu về cuộc đời và văn nghiệp Khái Hưng khá hay nhưng lại miêu tả như huyền
thoại là Khái Hưng chết vì rơi vào ổ phục kích y như một nghĩa sĩ, giống như
thật. Không riêng gì Vu Gia, thật buồn cười, sau giải phóng, khi đặt chân đến
Sài Gòn, tôi đã nhảy vào thư viện của trường Quốc gia Sư phạm đọc ngấu nghiến
một lèo 6 cuốn sách, cuốn nào cuốn nấy to như cục gạch viết về việc “Làm thế nào để giết một tổng
thống” là ông Diệm ông Nhu. Cả 6 cuốn kể 6 kiểu chết khác nhau, màu mè, li kỳ,
sửng sốt, hấp dẫn. Ông nào cũng thề thốt với độc giả ông ta mới là nhân chứng
thứ thiệt !
Tác phẩm của Khái Hưng để lại
:
Tiểu
thuyết : Hồn bướm mơ tiên (1933); Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933); Nửa chừng xuân (1934); Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934); Trống mái (1936); Gia đình (1936); Tiêu sơn
tráng sĩ (1937); Thoát ly (1938);
Hạnh (1938); Đẹp (1940); Thanh Đức
(1942).
Tập
truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất
Linh, 1934); Tiếng suối reo (1935).;
Đợi chờ (1940); Cái ve (1944).
*
Phạm Quỳnh (17 tháng 12 năm 1892 - 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo,
nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam).
Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và
dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay
tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu.
Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân.
Ông
được xem là người chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền
độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình
Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam),
chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với
thuyết Quân chủ lập hiến.
Phạm
Quỳnh sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội;
quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang,
tỉnh Hải Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống
hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh
côi cút được bà nội nuôi ăn học.
Phạm
Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung
học Bảo hộ (tức trường Bưởi, còn gọi là
trường Thông ngôn).
Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc
ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội
lúc vừa tuổi 16.
Từ
năm 1916, Ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút
kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ
ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho
đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng "Pháp Việt đề huề".
Cũng
trong thời kỳ 1924-1932, ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.
Ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là
Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức, Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của
Hội; và Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ.
Năm
1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội
chợ triển lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân
lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.
Năm
1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt,
Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báoFrance - Indochine.
Từ
năm 1925 - 1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926, ông làm
ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài
chính Đông Dương.
Năm
1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập
hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam , vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.
Năm
1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức
Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.
Ngày
11 tháng 11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên
làm vua thay Khải Định, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu
vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại,
ông thôi không làm chủ bút Nam phong Tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm
việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và cuối cùng giữ chức vụ
Thượng thư Bộ Lại (1944-1945).
Ngày 9 tháng 3 năm
1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập.
Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phú Cam, Huế.
Ông
bị Việt Minh bắt giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và giam ở lao
Thừa Phủ, Huế. Người thừa hành lệnh này là Đặng Văn Việt (về sau trờ thành con
hùm xám đường 4 - tiểu tướng Napoleông). Ông bị xử bắn sau đó cùng với nguyên
Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của
Ngô Đình Khôi). Chuyện này do Tố Hữu - Chủ tịch lâm thời thành phố Huế kể cho
Trần Huy Liệu nghe.
Di
hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9
tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.
Thông
tin về ai đã ra lệnh giết ông được lý giải theo nhiều giả thuyết khác nhau.
Cái
chết của Phạm Quỳnh
Cuốn Tác gia văn học Thăng Long Hà Nội từ thế
kỷ XI đến giữa thế kỷ XX, mục về Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng có một dòng:
Đến Cách mạng Tháng Tám 1945 chính quyền nhân
dân khép án tử hình.
Có
lệnh cấp tốc di dời Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh ra khỏi cố đô
đề phòng những chuyện bất trắc không hay sau này. Nhóm du kích áp tải đến một
quãng rừng cách xa Huế thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu tưởng đâu như
tiếng máy bay thả biệt kích. Sợ không hoàn thành trách nhiệm di dời nên nhóm áp
tải đã tự động thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Giả
thuyết này không đề cập đến cấp trên là ai hay cơ quan nào ra lệnh.
Có
người cho rằng trong số người đi áp tải đó có người nhà Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, người có mối hiềm từ lâu với
Phạm Quỳnh nên đã lợi dụng việc này mà giải quyết ân oán.
Có
nguồn tin, vì Pháp cho biệt kích tìm Phạm Quỳnh nhưng nhóm này bị bắt và để lộ
thông tin, và Phạm Quỳnh bị dân quân địa phương (Hiền Sĩ, Thừa Thiên, Huế) giết.
Nhà văn Thái Vũ lý giải:
“Mà
lúc ấy trong dân chúng, buổi đầu cách mạng, cũng là trong ngày đầu chính quyền
mới do dân làm chủ thì mấy tiếng Việt gian,
diệt Việt gian kèm theo hành động lan truyền… khắp mọi nơi, nhất là đối với
những người có “thành tích” thân Pháp. Mà hai cụ họ Phạm và Ngô thì rõ ràng
quá, tránh sao lúc trong dân, chỉ mới hưởng 1 ngày đầu chính quyền cách mạng,
còn căm thù bọn thống trị Pháp và đám tay chân người bản xứ của chúng, có hành
động manh động. Đó hẳn là “nỗi uẩn khúc” cuối cùng của ông chủ báo Nam Phong”
Phạm
Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý
luận. Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình
của ông là đã "luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các
ý tưởng về triết học, khoa học mới."
Trước
đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của
thực dân Pháp. Ông bị coi là "ru ngủ" thanh niên trí thức trong cái
"hồn nước" mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng
chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của
Pháp.
Gần
đây, tại Việt Nam
bắt đầu có sự đánh giá công bằng hơn. Từ điển Văn học bộ mới (2004)
coi ông là người có tinh thần dân tộc, ôm ấp một chủ nghĩa quốc gia theo xu
hướng ôn hòa, lấy việc canh tân văn hóa để làm sống lại hồn nước. Kể từ
năm 2000,
nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam :
Mười ngày ở Huế, NXB Văn học – 2001; Luận giải Văn học và Triết học, NXB Thông tin, 2003; Pháp du hành trình nhật ký, NXB Hội Nhà
Văn, 2004; Thượng Chi văn tập, NXB
Văn học, 2007; Du ký Việt Nam, NXB
Trẻ, 2007; Phạm Quỳnh - Tiểu luận
viết bằng tiếng Pháp, NXB Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo
ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)
Những
đánh giá về Phạm Quỳnh :
Trước đây, khi Thượng Chi làm
báo Nam Phong người ta kết tội ông
làm bồi bút cho Pháp, khi ông làm Thượng thư bộ học bị kết tội Việt gian, bán
nước. Những gì của con người này đều xấu xa tỉ như câu danh ngôn tuyệt hay sang
sảng niềm tự hào về văn hóa dân tộc “Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn” bị lên án là đánh lạc
hướng quần chúng để không nghĩ tới việc cấp bách là giải phóng dân tộc.
Hồ
Chí Minh : “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này”
Trong
báo cáo ngày mồng 8 tháng 1 năm 1945 gửi cho đô đốc Decoux và cho Tổng đại diện
Mordant, ông Thống sứ Trung Kỳ Healewyn đã báo cáo về Phạm Quỳnh như sau:
"Vị Thượng thư này vốn đã chiến đấu suốt
cuộc đời mình bằng ngòi bút và bằng lời nói, không bao giờ bằng vũ khí chống sự
bảo trợ của Pháp và cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba
kỳ (Bắc, Trung Nam) và cho việc người Việt Nam nắm trong tay vận mệnh của chính
mình... Những yêu sách của Phạm Quỳnh đòi trở lại việc chấp thuận một chế độ tự
trị hoàn toàn cho hai xứ bảo hộ (Trung Kỳ và Bắc Kỳ)
khước từ chế độ thuộc địa ởNam Kỳ và thành lập một quốc gia Việt Nam. Tôi xin lưu ý
ngài một điều là, dưới vẻ bề ngoài nhã nhặn và thận trọng, con người đó là một
chiến sĩ không lay chuyển nổi cho nền độc lập của Việt Nam và đừng hòng có thể
làm dịu những tình cảm yêu nước chân thành và kiên định của ông ta bằng cách bổ
nhiệm ông ta vào một cương vị danh dự hoặc trả lương một cách hậu hĩ. Cho tới
nay đó là một địch thủ thận trọng nhưng cương quyết chống lại sự đô hộ của nước
Pháp và ông ta có thể sớm trở thành một kẻ thù không khoan nhượng...".
Nguyễn
Công Hoan :
"...Phạm Quỳnh, trái lại chủ trương
thuyết lập Hiến. Người Pháp nên thi hành đúng Hiệp ước 1884 nghĩa
là chỉ đóng vai trò bảo hộ còn công việc trong nước thì để vua quan người Nam
tự đảm nhiệm lấy. Bấy giờ Phạm Quỳnh vào Huế làm quan không phải vì danh. Quốc
dân biết tên Phạm Quỳnh hơn nhiều Thượng thư Nam Triều. Mà cũng chẳng phải vì
lợi. Đơn cử làm chủ bút Nam
Phong, Phạm Quỳnh được cấp 600 đồng một tháng. Món này to hơn lương Thượng thư.
Phạm Quỳnh ra làm quan chỉ đổi lấy danh nghĩa Chính phủ Nam Triều đòi Pháp trở lại Hiệp ước
1884. Vậy là một người yêu nước như Phạm Quỳnh sở dĩ phải có mặt trên sân khấu
chính trị chẳng qua là một việc miễn cưỡng trái với ý mình để khuyến khích bạn
đồng nghiệp làm việc cho tốt hơn chứ thực lòng một người dân mất nước ai không
đau đớn ai không khóc thầm. Thế là tôi nghĩ ra được truyện Kép Tư Bền tả một
anh kép nổi tiếng về bông lơn đã phải vì giữ tín nhiệm với khán giả mà lên sân
khấu nhà hát làm trò cười ngay cái tối cha mình đang hấp hối".
Giáo
sư Văn Tạo:
"Phạm Quỳnh không có hành vi
nào tàn ác với nhân dân, không đàn áp các cuộc khởi nghĩa nông dân như nhiều
quan lại thời Nguyễn, không ra lệnh bắt bớ tù đày các nhà yêu nước (...). Nhưng
mặt khác ông lại có công chuyển tải văn hóa Đông - Tây trên văn đàn, báo giới
Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm cho ngôn ngữ, văn hóa dân tộc Việt Nam
thời đầu thế kỷ XX, công lao đó đáng được ghi nhận".
*
Tạ Thu Thâu (1906–1945)
là một nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX,
một lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ thời sơ khai của các
phong trào cộng sản tại Đông Dương, theo chủ nghĩa Trốtskít. Nhà nghiên
cứu Thiếu Sơn đánh giá “Không ai phủ nhận được tấm lòng yêu nước của ông, chẳng
những yêu nước mà còn dám xả thân hy sinh cho nước. Chỉ có điều khác là nói tới
nước, ông liền nghĩ tới dân, thứ nhất là dân vô sản”.
Tới
nay, tuy không có tranh cãi về việc mặt trận Việt Minh sát hại Tạ Thu Thâu, vẫn
còn nghi vấn về lệnh giết từ đâu đến. Giả thuyết của nhà sử học Daniel Hémery
cho rằng các cấp chỉ huy địa phương ở Quảng Ngãi nhận lệnh cấp trên đã ra lệnh
giết. Cấp trên ở đây trực tiếp là TVG. Tạ Thu Thâu bị đưa ra pháp trường bắn ba
lần mới chết nhờ tài hùng biện thuyết phục của ông mà các đao phủ thủ không nỡ
xả súng vào người anh hùng yêu nước.
Trong
buổi phỏng vấn ngày 25 tháng 6 năm 1946, Hồ Chí Minh đã
trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của Tạ Thu Thâu như sau: Ce
fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la
ligne tracée par moi seront brisés (Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc, chúng
tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường
tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt).[The Anti-Colonial Movement
in Vietnam]. Cũng khoảng thời gian 1945, người của Trần Trọng Kim
hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh về cái chết của
Tạ Thu Thâu. Ông Hồ Chí Minh trả lời “Trệch đường ray” (Hồi ký Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim)
Vì
sao Việt Minh giết Tạ Thu Thâu ? Đó là
cách mà Stalin giết Trốtsky để trừ hậu họa.
Kiều bào ta hồi đó ở Pháp có xu hướng tả, hầu hết ngả về Đệ Tứ. Còn
trong nước do tuyên truyền, Trốtsky nhân vật sau Lê Nin đòi xét lại chủ nghĩa
Mác được xem là tay sai của đế quốc, cướp của giết người.Thời đó, Tạ Thu Thâu
là lãnh tụ Trốtskít ở Việt Nam. Ông là cây bút sắc bén (giỏi viết báo Pháp ngữ
và Việt ngữ), một diễn giả xuất sắc hùng biện, một trí thức có uy tín, nhân
cách ôn hòa nhũn nhặn. Tạ Thu Thâu hoạt động mạnh ở Sài Gòn và tiếng tăm vang
xa cả nước. Ông chống Pháp, bị bắt 6 lần, 5 lần bị kết án, tổng cộng 13 năm tù
10 năm biệt xứ. Năm 1945, từ Côn Đảo được thả, Việt Minh đón đường bắt lọng và
sát hại ông trên cánh đồng Mỹ Khê, Quảng Ngãi. Một cuộc đời xán lạn vì dân vì nước
lãnh cái chết thật bi thảm, lãng nhách
Sau
giải phóng, người ta đổi tên đường Tạ Thu Thâu sau chợ Bến Thành thành đường
Lưu Văn Lang, đường mang tên ông ở Mỹ Tho cũng bị đổi. Tạ Thu Thâu chỉ được
nhắc đến cái tên với định danh “Tay sai cho đế
quốc, mật thám cho phát xít Nhật”. Sao bất công thế, hả Trời ?
*
Những
người bị giết đều là những tinh hoa, là danh sĩ đạo cao đức trọng, yêu nước thương
dân, có thành tựu văn hóa sáng giá cống hiến cho nền văn hiến nước nhà. Họ chết
mỗi người mỗi cách đau xót và hàm oan:
Nhà văn Lan Khai bị xô xuống vực, văn hào Ngô Tất Tố bị bức cho treo cổ
tự vẫn, Khái Hưng bị bỏ rọ trắn sông, Phạm Quỳnh đối thủ đáng gờm của thực dân Pháp bị xử tử, Tạ Thu
Thâu nhà yêu nước lớn bị tử bắn; nàng thơ nữ sĩ Thu Hồng bị bắn lén từ sau lưng; Nhượng
Tống dịch giả tài hoa số 1 bị ám sát; Dương Quảng Hàm vị giáo sư đáng kính ra
khỏi nhà đi mãi không về; vị bồ tát
Thiếu Chửu bị bức hại nhảy xuống sông tự tận.
Cái án “mạc tu hữu” (Giết rồi sau sẽ biết) của thời trung cổ vẫn đeo đẳng khốc
liệt đến tận bây giờ !
Đó là tất cả sự thực về những cái chết
tức tưởi oan khuất của các nhà văn, nhân sĩ mà bọn gieo ác vẫn sống nhởn nhơ
trên pháp luật với bộ mặt người lương thiện ! Nguyên tắc bất di bất dịch nằm
trong ý thức hệ tư tưởng của những kẻ sát nhân lương thiện này là: yêu nước và
chính kiến là độc quyền của tao, mày không đi với tao, mày là kẻ thù của
tao. Đã là kẻ thù thì mày không có quyền tồn tại !
Giết
người nhưng không bao giờ nhận trách nhiệm là thủ phạm, thường họ vẽ rồng vẽ
rắn tung hỏa mù trên các sách báo, làm
chúng ta ngộ nhận họ như những ân nhân. Trâng tráo nhất là vụ tìm hài cốt nhà
văn Lan Khai đăng hai kỳ trên báo Văn
Nghệ. Thật là nói láo không có nghề, luận cứ hở toang hoác ra. Chẳng lẽ tôi
lại viết một bài vạch mặt sự dối trá này ra. Làm thế, người ta lại bảo ông này
nhiễu sự.
(Kỳ 3 - hết)
LỜI NHẮN :
Thưa bạn đọc. Tôi viết loạt bài “chuyện bây giờ mới kể” từ Thân phụ tôi, Chị tôi, Những cái chết tức tưởi của nhà văn…là để làm gì ? Đấy là những
mảnh của một công trình triết học bàn về Chân Lý mà tôi đang đeo đuổi suốt mấy năm
nay chứ không phải là những lời lẽ rẻ tiền thóa mạ những sai lầm của Đảng và
Nhà nước trong quá khứ, nó chỉ là dẫn liệu cần thiết làm sáng tỏ vấn đề khoa
học đang bàn chứ không phải là mục đích. Chức năng cao cả của các bài viết này
là cảnh báo, cảnh tỉnh, ngăn chặn
những sai lầm ấu trĩ đã qua sẽ và đang
xẩy ra nhỡn tiền và tương lai của giới cầm quyền hiện nay. Bởi lịch sử bao giờ
cũng đi những bước trùng lặp. Hậm hực, chửi bới, chỉ trích vô lối vô luân như
một con mụ nhà quê lắm mồm là việc làm của bọn cầm bút tiểu nhân. Đưa ra một quyết sách cứu nước, cứu dân dẫu có đau
đớn và cay đắng đến đâu thì đó là phong cách của người cầm bút quân tử.
Thấu hiểu tinh thần đó nên bạn
đọc bốn phương đã yêu quý, trân trọng dành cho các bài viết của tôi một tình
cảm thật nồng hậu của những công dân có lương tri lương năng. Xin đa tạ.
“Tôi nghĩ mọi người Việt thế hệ
chúng ta cần ôn lại bài học này, kể cả các đảng viên ĐCSVN. Ôn lại không phải
để oán trách hận thù. Ôn lại cũng không phải để tự dày vò vì mặc cảm tội lỗi,
nhưng để có một tâm tình sám hối lành mạnh. Ôn lại để từ thế hệ chúng ta trở đi
không bao giờ còn vấp phải sai lầm kinh khủng của thời mê muội độc ác đó nữa.
Và ôn lại để mở một lối đi mới hướng về tương lai: dứt khoát tìm lại bằng được
những di sản tinh thần cao quý của tổ tiên mà đã một thời ta dại dột đánh mất,
và từ đó mà vượt qua quá khứ đau buồn để cùng nhau xây dựng cho thế hệ hôm nay
và mai sau, để cho những khổ đau và xương máu của những người đi trước chúng ta
không trở thành vô ích”. Xin mượn lời một commen ở Nguyen Xuandien.com – thay lời
muốn nói gửi tới các bạn và cả những ai đó đang chực lăm le bắt bẻ tôi.
Thái Doãn Hiểu
•-----------------------------
Nguồn dẫn liệu trong chương này:
- Ghi chép điền dã
- Từ điển Bách khoa toàn thư
0 nhận xét:
Đăng nhận xét