Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

Buôn vua



Buôn vua

Truyện ngắn của Thái Doãn Hiểu

Thái Doãn Hiểu, 2010

Sau này, mỗi lần đi qua quán Trung Tân của Trạng, tôi lại lặng lẽ mỉm cười trước cái bả lợi danh mà người đời thời nào cũng ham hố. Xưa, Lã Bất Vi từng rấm hạt giống của mình để buôn một ông vua và  thừa tướng họ Lã đã chết bất đắc kỳ tử vì ông vua con do mình lai ghép đó.

Trong các hàng hóa bán mua ở trên chính trường, có lẽ món béo bở có lãi  thượng thặng  là món kinh doanh quyền lực. Món này dễ mất đầu như bỡn nhưng không ai ngán mà từ bỏ nó cả. (TDH)


*             

Những ngày còn dạy học trên quê hương  Trạng Trình, chiều chiều tôi (Thái Doãn Hiểu) thường thơ thẩn một mình dạo chơi ngắm cảnh mặt trời tà đỏ ối trên sông Tuyết mà chạnh nhớ đến Phu Tử người hiền.

Có lần đi qua nền cũ quán Trung Tân, tôi bật cười vì một sấm ngôn do một bà tuổi sồn sồn bất chợt xướng lên oang oang cho một bà bạn đi chợ hôm về cùng nghe:

Bao giờ ngựa đá sang sông
Thì dân Vĩnh Lại quận công suốt làng!

Ngựa đá thì làm sao lội qua sông được nhỉ ? Lỳ khôi quá ! Vĩnh Lại là làng của Trạng Trình  rồi, nhưng ai làm quận công mà nhiều rứa ? Cả một làng quận công chứ chẳng chơi ở một xó làng quê nghèo kiết, hiền khô ở mé bể xa tít kinh kỳ này ! Ái chà ! Làng Cổ Am xưa kia đã từng  hiển hách xài sang đến nhiều thế ư cái danh tước hiếm hoi thông thường cả nước may lắm chỉ có độ vài ông.

Tôi đem chuyện này ra hỏi anh Nguyễn Văn Khoảng - hậu duệ xa đời của Trạng. Nhiều sấm ký của Tổ, anh Khoảng rất rành nhưng chuyện này thì ông chánh văn phòng trường cấp III Vĩnh Bảo nghểnh ngãng bảo là không hay. Tôi lại đem hỏi một vài vị cao niên, họ cũng lắc đầu không biết nốt, Và rồi sự tích ngựa nghẽo, quận công đầy quyến rũ trong tâm trí tôi cứ chìm dần vào lãng quên giữa công việc dạy dỗ với chuyện áo cơm ì xèo thường nhật.

Bẵng đi lâu lắm, một dịp tình cờ tôi sang Ninh Giang chấm thi, gặp ở bến đò Chanh một bô lão đầu quấn thủ rìu, quần nâu áo chằng nhưng có cặp mắt tinh lạ không phải mắt người thường, làm nghề chở đò trên sông giải mã cho nghe câu sấm ấy. Ông lão ngoắt cây sào dài khua vào be lộp cộp, đẩy con thuyền nát bơi ngược dòng, ngoặt cái mũi thuyền đã quay sang ngang.

Lão kể:

Khi hồi hương ẩn cư lập ra quán Trung Tân, Phu Tử có sai gia nhân tạc một con ngựa đá đặt ở xế của quán ven bờ sông Tuyết. Con ngựa đá tầm thước sống động nhong nhong tưởng nôn nóng muốn tế vó nhưng nó sợ tấm bia đá đứng cạnh với hàng chữ Nho khắc rất bay bướm như đùa nên bồn chồn đứng yên, bức bối “Hà thời thạch mã độ giang - Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu”. Ngựa đá và bia đá sấm tạc từ năm 1557, trở thành kỳ quan của làng thu hút không biết bao nhiêu kẻ hiếu kỳ tứ phương. Tấm bia và ngựa đá kiên gan đứng đó tắm mưa nắng, gội thời gian như một câu đố bí hiểm sừng sững  suốt hơn hai thế kỷ. Những đầu óc thông thái thời kỳ ấy đoán già đoán non mò không ra lời đáp.

Tới năm 1777, trời làm một cơn đại hồng thủy, đê vỡ, nước ngập lai láng, ngựa và bia đá biến đâu  mất tăm. Dân làng cũng chẳng còn hơi sức đâu để ý đến nó. Họ lo hàn đê, dựng lại nhà cửa, tổ chức lại cuộc sống sau cơn thủy tai. Ba năm sau, một gã nông phu đi thả ống trúm bắt lươn moi được con ngựa đá vùi trong bùn cát bên hữu ngạn Tuyết giang. Đó chính là con ngựa đá của Trạng bị dòng xoáy lũ ném từ tả ngạn quán Trung Tân sang đây.

Chắc có điềm trời báo mộng chi đó, dân làng sợ động đến oai trời nên lập miếu thờ, dựng ngựa đá dậy ngay chỗ huyệt ngựa vừa đào được.

Cái năm “Ngựa đá sang sông” cũng là năm đất nước khốn khổ này xảy ra nhiều thác loạn. Tại Kinh kỳ, ông chúa Trịnh Sâm vì mê đắm bà Chúa Chè Tuyên phi Đặng Thị Huệ, mà bỏ trưởng Trịnh Tông lập thứ đưa đứa con nít ba tuổi đầy sài đẹn con ả (Trịnh Cán) lên ngai làm bọn lính Tam phủ nổi giận. Sâm vừa băng hà là chúng làm binh biến giết Cán, giết luôn cả quận Huy Hoàng Đình Bảo phò Khải lên giá ngay. Cậy công cậy quyền, bọn kiêu binh lộng hành làm đủ trò ngược ngạo. Chúng tỉa dần bọn cận thần tay chân của Khải, con khinh Khải không khác gì đứa nặc nô.

Lúc ấy, ở Đàng Trong, thanh thế Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lẫy lừng sét vang sấm nổ. Chỉ sau mấy trận giao tranh, Nguyễn Huệ diệt tan Chúa Nguyễn. Thừa thắng quân Tây Sơn có Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn đường rầm rộ kéo binh mã ra bắc quét sạch Chúa Trịnh cùng đám kiêu binh bọt bèo làm cho ông vua trẻ Lê Chiêu Thống chạy bạt vía. Quân Tây Sơn thu đất nước về một cõi.

Ông Huệ bấy giờ trong mắt dân chúng, sĩ phu và nhất là cựu thần nhà Lê ở Bắc Hà chỉ là một gã bạch đinh áo vải ấp Tây Sơn, nhờ thời thế ngả nghiêng, chỉ chưa đầy năm đã đạp đổ một vua hai chúa, lên ngôi chúa tể hùng cứ  sơn hà nên vừa sợ, vừa phục, lại vừa khinh. Họ nổi lên như ong như kiến khắp nơi để phù Lê.

Nghe tin tướng Hoàng Phùng Cơ dấy binh ở Sơn Tây, Chiêu Thống lẻn theo họ Hoàng. Vua vừa tới nơi thì Cơ đã bị thượng tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm giết, quân doanh tan hoang. Hoảng hồn, vua khóc như bò con lạc mẹ, trốn chạy về cửa sông Luộc, mong được nương tựa quận công Đinh Tích Nhưỡng. Nửa đêm tới Sơn Nam có tin dữ: ngài Đinh tướng quân, dòng dõi Đinh Văn Tả  tập ấm 18 đời quận công này đã bị đô đốc Ngô Văn Sở đánh tan, phải cuốn cờ  bươn xuống Hải Đông (Hải Dương), Chiêu Thống lại đổi hướng lần mò về phía ấy. Khi sang đò bến Đầm, đức vua bị bọn lái đò họ Trần lột hết cả long bào lẫn bọc hành trang cùng vàng  ngọc quý giá, tống cho một đạp lộn cổ xuống sông, xong chèo đò cút thẳng. May có cận thần Lê Quýnh lén dấu được quả ấn “Truyền quốc bảo”, đang khi chộn rộn nhảy ào xuống sông trốn thoát. Vớt được ngài ngự lên, ông chú họ của đức vua lấy lời yên ủi, dặn dò “Tâu bệ hạ, thế giặc giờ đang cường như con nước lớn. Chúng là hùm beo lang sói. Muốn khôi phục lại giang sơn, bệ hạ không thể cậy trông vào lũ mạt dân Bắc Hà được. Quân tướng triều đình giờ chỉ còn là một đám ô hợp khốn nạn, bám vào chúng chết chìm cả lũ.  Muốn trục được giặc dữ ra khỏi xứ, hạ thần phải lặn lội sang Tàu một chuyến mới xong”.
Lê Chiêu Thống ngoi ngóp trong bụi dứa gai ướt lướt thướt mừng rơn, mếu máo “Phải ! Phải ! Hoàng thúc hãy nên vì sự nghiệp nhà Lê ta mau mau bôn tẩu sang Thanh triều cứu cấp, trẫm sẽ lưu lại trong nước hô hào dân chúng lập một đội nghĩa cử cần vương làm hậu thuẫn cho quan quân Thiên triều”. Lê Quýnh cung kính trả quả ấn vàng cho vua  “Đúng quá ! Hay lắm ! Thần cũng nghĩ vậy. Muốn chính danh phải có quả ấn vàng này trong tay. Bệ hạ nên giữ vật báu cẩn thận để hiệu triệu đắc lực và phong thưởng cho những ai tận trung báo quốc”. Vua ngượng ngùng lận quả ấn vào lưng cải trang giả làm thường dân. Vua tôi sụt sùi chia tay, kẻ ngược lên mạn bắc, người lần mò xuôi về phương nam.

Mờ sáng hôm sau, Lê Chiêu Thống vừa từ một tòa miếu đổ nát nơi ngài nghỉ qua đêm bước ra thì thình lình đã nghe thậm thịch những bước chân người chạy sấn sổ đến trước mặt, hò hét chỉ trỏ om sòm “A ha, đây rồi, anh em ơi, tìm mãi đức vua đây rồi !”. Đầu óc Chiêu Thống nổ đôm đốp, môi  líu ríu chối “Bậy nào ! Vua… Ai vua?! Các bác chớ nói nhảm mà mang tội cả lũ chứ chả chơi đâu !”. Một bọn chục người hò nhau xông vào cõng vua băng xuống thuyền, mặc cho đức ngài khiếp hãi gân cổ lên hết sức cãi. Định thần lại, trời ! Vua nhận ra cái chính bọn cướp ngày hôm qua đã trấn lột mình, tống mình xuống thăm hà bá đây mà.

Thì ra, sau khi khoắng được một mẻ bẫm, chủ thuyền Trần Sinh cho thủ hạ mời Trần Thành – cha hắn đang đỗ thuyền gần đó tới.  Nghe thủng chuyện, lão Trần Thành như kẻ động kinh, trợn tròn mắt, giẫm chân đấm ngực thùm thụp, thét “Cả một lũ chó lợn, ăn phải giống gì ngu độn thế. Tụi bay đã bỏ lỡ một cơ hội nghìn đời có một!”. Bọn thuyền chài quần quày áo cụt nghe chửi mặt thộn cán tàn. Lão Trần tức tối ném phịch cái áo long bào ra trước bấy nhiêu khuôn mặt ngơ ngác, gắt như mắm ruốc “Cướp lấy cái vật gở này làm chi hở trời, lợi lộc gì cho cam ! Bán không ai dám mua, cho không ma nào dám lấy, giữ thì có phải mình mày bị chém bay đầu thôi đâu mà có khi cả tam tộc mồ tổ nhà mày sẽ làm quỷ không đầu”. Bọn thuyền chài thấm sợ, co mình lại trước câu đe rùng rợn.

Vợ Trần Sinh láu táu chen vô “ Hay là bố mày vứt mẹ nó xuống sông ngay đi, rước chi của nợ này trong nhà để chuốc họa vào thân ?” Lão già được thể vểnh râu, quắc mắt “Làm thế mà chạy tội được à?”. “Biết xoay xở làm sao hở trời” - Trần Sinh thở dài than. Chờ cho những lời bàn tán lắng xuống, buông một tràng cười tinh quái, lão Trần vuốt râu tủm tỉm “Xưa nay, chúng  mày chỉ biết chài chài lưới lưới, thả câu bắt cá đem ra chợ đổi gạo. Nay, chúng bay có dám cả gan đi buôn không nào ?” “Buôn gì cơ ?” – “Buôn một ông vua !”. Chúng trố mắt kinh dị. Lão ra lệnh “Chúng bay hãy chia nhau sục tìm cho ra cái ông vua mất ngai mà chúng bay đã lột trần như nhộng ấy đem về đây hết lòng phụng dưỡng rồi phò tá ông ta đến chỗ ông ta muốn đi. Khi sóng yên bể lặng, chúng bay tha hồ mà lãnh ơn đền nghĩa đáp, thỏa sức hưởng phú quý vinh hoa. Tao đồ rằng chủ nhân của chiếc áo này phải là thiên đế chân mệnh đâu phải tay tẹp nhẹp, chẳng qua gặp bước lưu ly, khuất khúc nhất thời đó thôi !”. Thật là qủy kế, lão già quả đa mưu túc trí. Bọn chúng hí hửng, đang đêm đỏ đuốc táo tác chia nhau túa ra lùng sục khắp bãi bờ tầm ông vua.

Tìm được Lê Chiêu Thống, chúng dong thuyền áp thẳng về làng Vĩnh Lại, cung kính rước vua lên từ đường thờ tổ, mật báo cho cả họ đến lạy mừng sì sụp. Lê Chiêu Thống mừng sợ ngổn ngang. Ngay trước thiên nhan, cả họ bàn  kế sách ứng phó. Chúng bàn : “Đinh Tích Nhưỡng đang đóng đại bản doanh ở Kim Thành cách xa ta không bao lăm, chỉ độ vài ba chục dặm đường. Nếu ta đưa đức vua về đó, bao nhiêu công lênh họ Đinh phỗng trọn, còn nước mẹ gì cho bọn đánh cá họ Trần ta nữa !”. Một tôn ông ra dáng kên kên bàn góp “Ai bảo đánh cá là nghề hèn mọn ? Gã Trần Lý (Trần Thủ Độ) xưa kia chẳng hành nghề chài lưới đấy sao ? Hắn ta chạy kiếm ăn lần hồi từ Yên Sinh (Đông Triều) đến vùng nước Hiển Khánh, Tức Mặc ven sông Hồng (Hà Nam), qua Bát Xá, Nông (cạnh sông Luộc). Phúc bảy mươi đời nhà gã có đứa con gái nhan sắc Trần Thị Dung gả cho hoàng thái tử Sảm (sau này là Lý Huệ Tông) mà cả họ vớ bở, nhất loạt được phong hầu. Về sau gã ma mãnh tiếm luôn ngai vua họ Lý, khuynh loát bá chủ thiên hạ. Nay, họ Trần chúng ta cũng chẳng thiếu gì tay kiệt hiệt như Trần Thủ Độ. Vận trời đã đổi dun dủi trao đấng quân vương này vào tay bọn ta, lẽ nào bọn ta lại không bắt chước Trần Thủ Độ dốc toàn toàn tâm toàn lực phò vua giúp nước, dại chi cờ đến tay không phất lại đem vào tay cho họ Đinh hưởng ? Mà cái ông tổ họ Đinh tên Văn Tả kia xưa cũng chỉ là một gã khố dây cù bất cù bơ kiến ăn quẩn ven hồ Tây, may nhờ kéo hộ chiếc thuyền rồng vua đi du xuân mắc cạn  được vênh vang võng lọng chứ có hiển hách cái quái gì !”. Nói đoạn, đám họ Trần xếp hàng nhí nhố trước mặt rồng, sụp mọp xuống lạy năm lạy thề sống thề chết phò vua dẹp giặc đền ơn nước.

Trong khi quỳ lạy, một gã chợt trông thấy kim ấn thòi ra ở thắt lưng gần rốn thiên tử. Ông trưởng họ Trần ra dáng khúm núm trịnh trọng xin đức vua trước hãy giáng chiếu phong tước cho mình đã. Có phẩm trật cao sang rồi thì mới mưu bá đồ vương lo chuyện đại sự được, chứ không có cái khoản này thì nói ai người thèm nghe theo ?

Như ngồi trên lưng cọp, hoàng thượng rầu rầu len lét đem các chức “lãnh binh”, “đô đốc” ra biếu tặng. “Lãnh binh”, “đô đốc” là cái thá gì, phải “quận công” cơ, “quận công” mới vẻ vang, mới oai ?”. Chúng  huơ chân múa tay nhất loạt bức bách vua. Cá đã nằm trên trốc thớt, phật ý chúng là bỏ bu, vả đã đến nước này thì “quận công”, “đô đốc”, “tể tướng” hay “thái sư” cũng thế cả thôi, bất quá chỉ tốn công in phẹt cái ấn quẹt son lên tờ giấy bản bọn họ đã thảo sẵn, chứ có mất mát gì. Vị hoàng đế trẻ chậc lưỡi, nuốt vội tiếng thở dài đắng họng, dụ “Phẩm hàm sắc phong là vật báu của triều đình xưa nay chỉ dành ân thưởng cho kẻ có công với nước. Nay, không nỡ phụ lòng trung trinh chí cốt và công cứu mạng quả nhân trong cơn hoạn nạn, trẫm bằng lòng ban thưởng cho các khanh. Nhưng khi được hưởng lộc nước rồi, các khanh phải gắng lập công chớ phụ lòng trông cậy của trẫm”. Roẹt một cái, năm bảy tờ giấy bản đã được vua tự tay áp triệt quốc bảo đỏ lòm. Mấy vị tôn trưởng họ Trần từ phận khố rách áo tải nhảy phốc một cái lên hàng nhất phẩm triều đình.

Thấy thang công danh mấy vị tôn huynh leo dễ ợt, mấy bác nhàng nhàng trong họ đâm ghen, kỳ kèo đòi vua ban cho mình những tước hiệu cao quý hệt như thế. Chiều Thống thành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, lại phải nai lưng ra đóng luôn cho mấy “đạo sắc” nữa.

Tin tức nhanh chóng lan truyền khắp họ. Bọn trai đinh họ Trần thấy cha chú mần ăn ngon ơ, chẳng tốn mấy tí nước bọt  mà kiếm chác được sộp, liền lục tục kéo đến. Chúng quay ra công khích phỉ báng các tôn huynh ích kỷ chỉ biết vun quén cho riêng mình quên béng cả con em. Các tôn huynh ngồi thin thít ngậm tăm. Chúng nhâu nhâu bâu lấy đức vua, đứa lôi trước, thằng giật sau đòi thiên tử thấm nhuần ơn  đã mưa  thì phải tưới cho khắp.

Trót phải trét, Chiêu Thống đành run rẩy mở hầu bao lôi kim ấn ra in la in liệt cho mỗi đứa một đạo sắc “quận công”. Chỉ tước “quận công” thôi, chúng không ưng những thứ khác.

Mặt trời đội bể nhô lên. Công việc in ấn mới hoàn tất. Hoàng đế mệt phờ, mồ hôi ướt sũng lưng. Ngài gượng cười.. Hơn một trăm “quận công” nữa đã sản xuất xong.

Cái làng vạn chài Vĩnh Lại bé xíu, nghèo kiết với những ngư phủ chân đất đầu trần, chữ “nhất” cắn đôi tịt mít, qua một đêm bỗng trở thành “quận công” hết thảy ! Tuyết Giang Phu Tử thánh thật !

Hay tin, hai ông tướng họ Bùi họ Đinh cười gằn nhổ toẹt xuống cái lò quận công láo nháo rơm rác này. Các bác công khanh họ trần nhà ta đành phải đơn thương độc mã cứu nước ! Lê Chiêu Thống chọn đúng lúc sơ hở vuột khỏi tay các vị quý tộc cấp tiến gốc vạn chài, trốn thoát.

Nửa tháng sau, trong  một trận tử chiến ác liệt với quân Tây Sơn trên cánh đồng phía tả sông Luộc, tất cả các vị nhất phẩm của triều đình đó đã bị lưỡi gươm dũng mãnh nhà nghề của thượng tướng Vũ Văn Nhậm khuơ ráo không sót một mống.

Câu chuyện lão lái đò kể chỉ có thế. Cái lối kể mới khúc chiết, hoành tráng và thông thái làm sao. Dân vùng này từ già chí trẻ ai cũng yêu lão, trìu mến gọi lão là Nam Thông. Thế gian quả thực không hiếm người tài ẩn danh. Mười tám năm qua rồi, tôi vẫn nhớ như in cặp mắt trong suốt lem lém như mắt mèo hoang, cùng giọng kể chuyện rỉ rả tan ra trong tiếng mái chèo rơi lõm đõm. Không biết con sông Luộc xanh biếc ấy chảy về đâu ?

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Giao lưu cùng tác giả "Thân phụ tôi"


 Giao lưu cùng tác giả
          Thân phụ tôi.

Thân phụ tôi đã đăng :


http://thieuhai.blogspot.com/2013/07/than-phu-toi.html




*

Thưa anh Trần Huy Thuận.
Có lẽ cảm mối tình phụ tử tình thâm của cha con chúng tôi, anh đã bỏ công điện tử hóa sách bài Phụ thân tôi.
Quá đẹp. Trên cả tuyệt vời. Xin được nắm bàn tay anh, cảm ơn anh.
Tôi cũng xin gửi tới bạn bè thân hữu của Thái Doãn Hiểu thành tựu này trong in ấn báo mạng.

THÁI DOÃN HIỂU

414/10B Nguyễn Duy Trinh, P.Bình Trưng Đông Q.2. Tp Hồ Chí Minh
website :http://thieuhai.blogspot.com
Google : thaidoanhieu
Mob: 0915374690


*

Anh ơi, bài về Cụ hay, cảm động và hoành tráng lắm. Em đăng ở đây.

Nguyễn Trọng Tạo

Thái Doãn Hiểu thân mến !   Thì ra là như thế. Đọc xong 'Thân phụ tôi' mới vỡ òa ra là đến nông nỗi như thế  ! Trước hết tôi thành tâm xin nhờ bạn thắp dùm thay tôi nén nhang lên bàn thờ  để tôi được bày tỏ nỗi lòng mình THƯƠNG CẢM-KÍNH TRỌNG đối với cụ Tiên !

Còn....Thái Doãn Hiểu ơi! Làm sao mà “Chuyện bây giờ” mới kể đến làm vậy. Ông Cụ là Người cộng sản bậc tiền bối.....Tôi vừa rồi mới nhận Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Đọc bài viết của Bạn lòng tôi tan loãng ra … Tôi thành thật chia xẻ nỗi niềm này với bạn. Bài viết này  trong phạm vi gia đình thì Bạn quả đã là một người con  BẬC  ĐẠI  HIẾU trong lòng tôi.
                                             
Lê Xuân Kích


Em Chúc trước tiên xin kính chúc mừng anh đã xây được VƯỜN VĂN mới. Em kính mong chủ trang Thái Doãn Hiểu an bình trong cuộc sống cũng như sức khỏe để chăm  chút khu vườn của mình cho ra đều trái thơm (dù vị có đắng hay ngọt ). Cả chiều nay em đọc bài THÂN PHỤ TÔI trên trang NTT . Em thật xúc động và đ/ t đến anh . Em không biết dùng từ gì để thể hiện sự thành kính của em đến Cụ. Cho phép em được tỏ lòng thành kính đến vong linh Cụ. Nhưng mà anh ơi , đọc đến đoạn cải cách của g/đ anh khiến em rưng rưng vì em nghĩ đến g/đ em , đến bố em . Dù bố em chỉ là nông dân có chút ruộng cũng là đ/v cộng sản mà còn bị đấu tố hàng tuần, bị đổ oan (mà toàn là cháu cùng họ thôi ) thiếu chút nữa bố em tự tử đấy (em nghe kể thế) Chuyện dài lắm khi nào anh em gặp nhau sẽ chuyện nhiều anh nhỉ .Nhà ngói 7gian còn không anh ? em tiếc ngôi nhà ấy nếu nó mất đi...Thế anh nhé. Em kính chúc anh chị thật khỏe. Em Đồng thị Chúc.


Đng Th Chúc

Cám ơn chú đã viết bài rất hay tưởng nhớ ông nội. Cháu đọc mà khóc ròng, xúc động quá. Chú ạ. Chú khắc họa chân dung ông thật tuyệt vời! Cháu thích nhất là đoạn viết về rừng Hậu Trạch..Thương ông quá.
Phương Lan
Thái hiền đệ,
Cám ơn những việc làm mới sau hồi phục. Cám ơn bài "Thân Phụ Tôi" trích trong Hồi ký chưa in.
Cha tôi có năm tháng gần với thân phụ hiền đệ : 1904-1987. Một câu chuyện khác, vào dịp khác. Tôi ước mơ viết được ít trang về Người, nhưng 75 tuổi rồi vẫn lang bang mãi.
"Thân Phụ Tôi" đối với tôi, chưa tìm được ngôn từ đúng hợp nhất để nói. Tạ ơn Đấng Tối Cao, đó là một trong những điều tôi đang tìm kiếm để có một cái nhìn, mà thời đó tôi cách xa, không có dịp được đi đào rau má như Thái hiền đệ.

Chỉ có điều, nhân trên con đường đi tìm LẼ THẬT mới gần đây thôi, khi tôi đã chạm tới, tôi muốn mạo muội gợi Thái hiền đệ về một khải tượng khi hiền đệ muốn chiếu xạ lên Thân phụ.
Phật không có can dự gì ở đây, cuộc đời của Phật không có nét tương đồng nào với Thân Phụ hiền đệ cả. Đó là hình ảnh của Chúa Cứu Thế với Cây Thập Tự Ngài mang trong đại mạng lệnh cứu rỗi Nhân Loại. Khải tượng đó sát đúng với Thân phụ hiền đệ hơn.
Tôi biết vì sao hiền đệ dùng khải tượng Phật, và cảm hứng nào để viết lên những dòng cuối chí cốt của chương này. Đó là do Học thuật, trí tuệ, kho tàng hiểu biết về Phật, tâm thức truyền thống của hiền đệ thôi. Hình như còn một khoảng cách xa, nhưng cực kỳ đơn giản : hiền đệ chưa biết đến Chúa Cứu thế, con của Đức Chúa Trời, Đấng tạo nên vũ trụ và muôn vật muôn loài ngày này. Người mà sự ra đời đã đã trở nên cái mốc chia đôi lịch sử nhân loại ra làm hai phần : trước và sau Công nguyên.

Hiền đệ yêu quý ơi !
Cám ơn nhiều lắm. Mình sẽ down để lưu bài này biệt ra một file riêng.

Bùi Huy Phác

Em ngồi đọc lặng đi vì những gì về CỤ. Em cũng chịu oan khuất nên càng đọc càng thấy buồn chán.

Bùi Kim Anh


Thân gửi : anh Thái Doãn Hiêủ,
NK có lời chúc mừng anh...và có lẽ đã đến lúc anh cho Xuất bản : "Toàn tập Thái Doãn Hiểu" bằng sách điện tử để cả thế giới này họ đọc ngay khi anh còn sống thì hay biết chừng nào, chả lẽ cuốn "Tùy Viên thi thoại-tân biên" vĩ đại của anh để anh em xuống âm phủ mới đọc hay sao ? Kính.

Nguyễn Khôi


Thái Doãn Hiểu và Hoàng Liên thân quý.Mình rưng rưng đọc "Thân phụ tôi"chuyện cũ của chúng ta không bao giờ quên được.Thế nhưng ta tự bằng lòng là đã làm đúng lời dạy của người, niềm mong mỏi của người và làm rạng danh người.Những điều mình làm được còn rất ít,  nhưng bao giờ mình cũng tâm niệm một điều: phải sống sao khi về quê,dứng trước bàn thờ tổ tiên mình không có điều gì phải hổ thẹn. Đó chính là tâm niệm của chúng ta phải không anh? Mong được đàm đạo tâm sự nhiều.   

Chúc và cầu mong hai Bạn vui.

Nguyễn Thế Quang

Bố yêu quý,
Con đã đọc kỹ chương hồi ký “Thân phụ tôi” của Bố trên mạng Nguyễn Trọng Tạo. Con gửi Bố một vài cảm nhận cá nhân.
Đầu tiên con cảm ơn Bố đã viết bài thật cảm động về ông nội của chúng con. Qua những hồi ức sâu đậm của Bố, con thấy và hiểu rõ hơn về cuộc đời và phương châm sống của Ông. Ông là ông Tiên giữa đời thường, một con rồng không phùng thời loạn thế nhưng suốt đời thực hành nhân nghĩa. Ông là tấm gương sáng và để lại nhiều phúc đức cho con cháu.
Về phương diện văn học, con thích cách kể chuyện lôi cuốn và miêu tả sống động  của Bố. Ngoài trọng tâm chính về Ông và cảm nhận của mình, bài viết đã chuyển tải nhiều thông điệp mang tính thời sự lẫn tính nhân văn vĩnh cửu. Con thích đoạn lấy ơn cứu oán, thấy được mâu thuẫn nội tại trong Ông qua mô tả lời nói và cử chỉ nhưng cuối cùng đức nhân đã thắng thế thể hiện qua hành động cứu con kẻ đã từng làm hại mình.
 Đọc bài con vỡ lẽ tại sao Ông có nhiều ảnh hưởng lớn đến Bố, có lẽ cũng ảnh hưởng nhiều đến con. Con nhớ một từ Bố nói Ông hay dùng: sống “hẳn hiên”, nghĩa là sống cho đàng hoàng tử tế? Vâng, đương nhiên rồi: “nhân nghĩa trân tàng bất hoán phương”. Thêm vào đó, cha con mình thừa hưởng tính yêu thích học thuật và sự uyên bác của Ông. Đó cũng là cách thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong công việc của mình.
Con đã chia sẻ bài viết của Bố trên trang facebook cá nhân và được một số bạn thân yêu thích bài. Con đã viết mở đầu thế này: “Không ngờ ông nội ảnh hưởng nhiều đến cha tôi như vậy! Liệu 25-30 năm sau tôi có thể có nhiều ký ức sâu đậm về cha mình như vậy ko?”. Con tin là có nhiều nhưng không chắc có thể viết hay và cảm động như vậy.
Con chúc Bố tinh thần thép và sự bền bỉ để thích nghi và chống chọi được bạo bệnh để có thể hoàn tất những dự định của mình. 
Thái Doãn Hoàng Cầu

HAY !

Hải Yến

 

Blog Nguyễn Trng To

4 phản hi

Muốn đọc nhưng dài quá, chắc cũng như “nhật ký thằng hèn”.   
Những việc làm của bọn cơ hội đội lốt CS đã làm cho dân muốn chạy trốn, sau hiệp định Geneve dân chúng bỏ quê hương bản quán vào nam, số ở lại rất tự tin mình đã đóng góp cho kháng chiến mà còn bị như vậy.

Hao Hao


Cảm động quá anh Thái Doãn Hiểu ơi!

Đỗ Duy Văn
Tình cha con của tác giả thật cảm động. Thật đáng thương, bố mất mà không có tiền về chịu tang. Bài này diễn tả nỗi “nhọc nhằn, đau xót” của dân tộc đã phải chịu đựng, nhưng buồn nhất là chính chúng ta tạo ra thảm trạng đó. Gà cùng một mẹ đá nhau te tua. Ôi chao ! Thương dân tộc ta quá !!!!
Phó Ngọc Anh

Qua cuộc đời làm hai chức phận cao quí thầy giáo, thầy thuốc của một người dân bình thường cùng với số phận của những người trong dòng họ Thái Doãn đã khái quát lịch sử Việt Nam từ khi có Đảng đến nay. Câu chuyện của tác giả cho chúng ta nhiều suy ngẫm về nhân tình thế thái. Lâu nay đọc bài của tác giả trên blog này tôi nhận được những kiến thức văn học uyên bác, mong rằng qua hồi ký của mình GS sẽ cho độc giả thấy rõ thêm những góc khuất của lịch sử thông qua số phận của một gia đình, dòng họ. Cảm ơn Nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu.

Tô Lê Sơn

Anh Thái Doãn Hiểu kính mến
Đọc Thân phụ tôi của anh, rất xúc động. Hiểu thêm về dòng họ Thái Doãn, cảm phục nhân cách của Cụ Thái Doãn Tiên, và hiểu thêm về thời "đã qua"... Hiện nay NBĐ đang bị trục trặc kỹ thuật chưa vào để đưa bài lên được. Khi nào khắc phục xong, bọn em sẽ đưa bài lên...
Chúc anh và gia đình mọi sự tốt lành

Châu Hồng Thủy

Thật tuyệt vời anh Hiểu ơi! Cuốn sách đã đem đến cho cả thế giới nhận diện một con người sống trong xã hội đầy biến thiên của lịch sử.
Xin một nén tâm nhang kính cẩn dâng lên cụ.
Chúc anh chị khỏe, Hạnh phúc

Nguyễn Lâm Cẩn

Thật đặc biệt anh Hiểu ơi, tôi là fan hâm mộ những bài viết của anh từ hơn chục năm này, nhưng không có dịp và cả không dám làm quen! Được anh … nhờ, tôi xin làm luôn. Cám ơn anh nhiều.
Anh có một người cha thật tuyệt vời.
Trần Huy Thuận
Mấy ngày cháu bận quá biết có bài Thân phụ tôi (Trích chương 17  ÂM VANG CỦA TIỀM THỨC, hồi ký) của Bác nhưng  chưa đọc được. Hôm nay ngồi đọc bài của Bác quả thực là hay thật. Nói như anh Hoàng Cầu  "Liệu 25-30 năm sau tôi có nhiều ký ức sâu đậm về cha mình như vậy ko?" Quả thực Bác có trí nhớ tuyệt vời về một thời đã qua, nhưng qua đó cũng khẳng định Ông Thái Doãn Tiên đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đại gia đình ta và đặc biệt là Bác. 
Chúc mừng Bác. Chúc mừng tinh thần và bài viết xuất sắc của Bác. Với cách sống "Hẳn hiên" mà ông Thái Doãn Tiên truyền dạy cháu rất tâm đắc phải học tập suốt đời.
Giữ gìn sức khỏe Bác nhé. Cảm ơn Bác.

Thái Doãn Việt

Anh Hiểu quí mến. Trong cải cách, trước khí thế sôi sục của quần chúng cùng với sự quyết tâm " xuống tay " vì căm thù  bọn địa chủ đến xương tủy của các ông đội, của các ông bà cốt cán thì đến sắt cũng phải chảy ra thành nước, nói gì đến máu người. Máu người hồi đó rất rẻ. Lạ là toàn những người một lòng một dạ theo kháng chiến phải " đền tội ".
Từ đó trôi đi đã trên 50 năm, chưa một vị nào công khai xin lỗi dân tuy vẫn phải thừa nhận chúng ta có sai lầm rằng do thế này, do thế khác...Vết thương trong lòng dân tộc vẫn còn đó.
Em nghĩ bác nhà dù sao cũng đã mỉm cười nơi cõi vĩnh hằng vì đã được minh oan. Nhưng còn bao nhiêu trường hợp khác vẫn còn phải ngậm cười nơi chín suối. Em xin chia sẻ với anh đã công khai sự thật như một lát cắt với thế cuôc trong " thân phụ tôi ".
Chúc anh cùng chị Liên sức khỏe và tự tại cùng nhiều sự tốt lành.

Lê Đăng Kháng

Mỗi lần chúng ta áp đặt rập khuôn đường lối cách mạng  của Tàu thì y như là dân tộc phải hứng chịu những thảm họa: Cải Cách Ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm, Xét lại xét đi…. Thiên hồi ký này không làm cái việc chỉ trích hay phê phán mà là để cảnh báo, cảnh tỉnh… coi chừng những sai lầm ấu trĩ sẽ lặp lại trong tương lai !

Từ Anh Tuấn