Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

Khuất Nguyên và sự tích Tết Đoan Ngọ

Khuất Nguyên và sự tích Tết Đoan Ngọ

  •   THÁI DOÃN HIỂUgiảm kích thước chữ tăng kích thước chữ
Khuất Nguyên (340-278 TrCN) là nhân vật lỗi lạc thời cổ đại Trung Hoa cả về cuộc đời, nhân cách và nghệ thuật thơ ca. Ông là danh nhân văn hóa thế giới (1953).
Tên thật là Bình. Ông là quan đại phu của nước Sở (tỉnh Hồ Nam). Xuất thân từ dòng dõi vương tộc nhưng đã sa sút từ đời cha, gần hàng thứ dân. Sử gia Tư Mã Thiên nhận xét “Khuất Nguyên học rộng nhớ nhiều, sáng suốt về chính trị, thông thạo về hiến lệnh” Ông sớm được vua Sở trọng dụng, cân nhắc lên hàng lương đống của triều đình (chức Tả tư đồ, dưới Lệnh doãn – Tể tướng). Đối nội, Khuất Nguyên chủ trương cải cách xã hội bằng những biện pháp nhằm hạn chế đặc quyền của bọn đại quý tộc, chủ trương “cân nhắc người hiền, trao quyền cho người có tài năng”; đối ngoại, chủ trưng liên Tề chống Tần. Khuất Nguyên bị đả kích kịch liệt vì điều đó mâu thuẫn với đường lối quyền lợi của bọn đại thần.
                                              
                                                                    Khuất Nguyên
Thuở đó - thời Chiến quốc, tình trạng xâu xé nhau  giữa 6 nướcTần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Yên đã đi đến chỗ quyết định. Sở từ chỗ cường thịnh đi đến chỗ bại vong, nguy cơ bị Tần thôn tính. Dao động, bất lực và ngu muội, nghe theo lời xúc xiểm của bọn nịnh thần gian tham Tử Lan, Ngận Thượng và sủng cơ Trịng Tụ bị quân thù mua chuộc mà phản bội, lại mắc mưu ly gián của bọn gián điệp Trương Nghi, Sở Hoài vương dần dần bỏ rơi Khuất Nguyên, cách chức Tả tư đồ, thậm chí còn đày ông  đi Hán Bắc (298 TrCN). Sau đó, được gọi về. Nước Sở một phen nguy ngập. Khuất Nguyên chỉ rõ địch – ta, thù-bạn, hiền tài-gian đảng cùng phương cách cứu nước, do đó nước Sở tai qua nạn khỏi. Sau khi Sở Hoài vương bỏ mạng ở đất Tần bởi tình nguyện làm con tin, Khoảnh Tương vương lên nối ngôi. Tình hình chính trị Sở càng thối nát, suy yếu. Nghe lời xúi dục của Lệnh doãn Tử Lan, Ngận Thương, Tương vương đày ông về Giang Nam. Ông qua hồ Động Đình, vượt vùng sông Nguyên, sông Tương, đến mãi tận sông Mịch La. Khi nước Sở bị Tần diệt đúng như lời tiên tri của ông, tướng Tần là Bạch Khởi công phá kinh thành Sính của Sở. Đau xót quá, Khuất Nguyên uất ức buộc đá vào cổ dìm mình xuống sông Mịch  La, mong lấy cái chết thức tỉnh triều đình và dân chúng. Đó là trưa (ngọ) ngày 5-5 âl năm 278 TrCN.
Về sau, để tưởng nhớ một vị đại thần và nhà thơ yêu nước trung trinh, hàng năm cứ vào ngày 5-5-âl, toàn dân Trung Quốc tổ chức  ăn tết đặt tên là Tết Đoan Ngọ để tưởng niệm Khuyết Nguyên. Ở tỉnh Hồ Nam trở thành một ngày hội thật sự : trống dong cờ mở đua thuyền vang rộn cả một quãng sông Mịch La nơi trước đây Khuất Nguyên trầm mình. Ở Việt Nam ngày đó ta cũng thờ cúng dưới cái tên Tết Đoan Ngọ, có nơi như miền Trung biến tướng thành Tết Giết Sâu Bọ.
 


                                      Tết Đoan Ngọ trên sông Mịch La
Về thơ ca, Khuất Nguyên có Ly Tao (1) (Nỗi buồn biệt ly) một trường ca gồm 372 câu. “Cửu chương” gồm 9 bài thơ ngắn. “Cửu ca” gồm 11 bài thơ ngắn trong tập Sở Từ  (Tiếng hát nước Sở), Thiên vấn(Hỏi trời) Với Ly Tao,Thiên vấn, Sở từ… bằng thơ ca của mình “chí ông sạch nên ông hay nói đến hoa thơm cỏ lạ, tính ông liêm nên dù chết ông cũng không chịu buông lỏng. Bị ngập trong bùn lầy, ông thoát ra khỏi chỗ nhơ đục, băng mình ra ngoài đám bụi trần, không để cho nó dây bẩn…” (Tư Mã Thiên - Sử ký). Tác phẩm thơ ca của người đã đưa Khuất Nguyên lên hàng đầu những nhà thơ Trung Quốc. Thành tựu huy hoàng đó là cuộc cách tân mạnh mẽ, xác lập một cách vững vàng nghệ thuật thơ ca trác việt thời cổ đại, làm khuôn mẫu cho người đời sau.
Khuất Nguyên để lại cho đời một giai thoại thú vị về  SAY - ĐỤC; TỈNH - TRONG
Chuyện kể rằng: nghe lời dèm pha của Cận Thượng cùng lũ gian thần, Sở vương nổi giận đuổi Khuất Nguyên ra khỏi vương triều. Khuất Nguyên, quần áo xốc xếch thất thểu đi bên bờ sông, thân thể khô đét, mặt mày phờ phạc. Ông vừa đi vừa hát, than khóc cho số phận bất hạnh của nước Sở nay mai. Những lời cay đắng khóc thương này đã nẩy sinh ra tập thơ Ly Tao bất hủ.
Chợt một ông lão đánh cá trông thấy, kêu lên:
  • Có phải Tam lư Đại phu đó không ? Trời ơi ! Làm sao ra nông nỗi này?
Khuất Nguyên bi phẫn:
  •  Đời đục cả, riêng một mình ta trong; mọi người say cả, chỉ mình ta tỉnh. Ta bị đuổi chỉ vì có thể.
Lão ngư phủ bàn góp:
  • Thánh nhân xưa nay xử sự uyển chuyển không câu nệ, biết việc tùy thời. Có phải đời đục cả, sao ông không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục ngầu một thể; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say nốt ? Việc gì phải lo xa, nghĩ sâu để đến nỗi bị xua đuổi, thân tàn ma dại ?
Bị xúc phạm, Khuất Nguyên cãi:
  • Tôi nghe mới gội đấu, tất phải chải mũ, mới tắm tất phải thay quần áo, có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch để cho vật dơ bẩn dính vào mình, chẳng thà nhày xuống sông Tương (1) vùi xác trong bụng cá, cớ chi đang trắng lôm lốp để vấy phải bùn nhơ ?
Ông lão đánh cá nghe xong tủm tỉm cười, quay thuyền chèo đi, hát bâng quơ:
Sông Tuơng nước chảy trong veo
Thì ta đem giặt sạch cái lèo mũ ta
Sông Tương nước đục phù sa
Thời ta lội xuống để mà rửa chân.
Hát xong, chèo đò đi thẳng, không ngoái cổ lại. Khuất nguyên lòng đầy cay đắng đứng sững nhìn theo (2)
*
Sau cái chết bi tráng của Khuất Nguyên, Tống Ngọc - nhà thơ đương thời làm bài phú nổi tiếng “Chiêu hồn”gọi hồn thầy mình hãy về dương gian đừng bơ vơ lạc lõng nơi đầu sông ngọn sóng. Về sau, trên 2.000 năm khi đi sứ qua Mịch La, sứ thần nhà thơ Nguyễn Du đã viết bài “Phản chiêu hồn” (Chống lại bài chiêu hồn) của Tống Ngọc. Tống Ngọc chiêu hồn Khuất Nguyên về, Nguyễn Du khuyến đừng về. Vì sao ? Bởi người đời sau ai ai cũng đều là Thượng Quan Ngận Thương, mặt đất đâu đâu cũng đều là sông Mịch La đầy cá rồng, thú dữ. Bọn  gian thần đứng ngồi như các bậc hiền giả, lên xe xuống ngựa, nói năng toàn là giọng đạo đức ông Cao ông Quỳ, che giấu vuốt nanh cùng nọc độc, nhưngg nhai xé thịt người ngọt xớt như đường. Hồn mà về chẳng có gì tốt đẹp nơi đây cả, cá sấu thuồng luồng không xơi thì lũ người thú kia cũng xâu xé…Nguyễn Du đã nhìn thấu cõi đời nhơ bẩn xấu xa, thối nát đâu đâu thời nào cũng đầy rẫy bọn tham quan ô lại độc ác, phản nước hại dân. Bài thơ là một kiệt tác giàu chất hiện thực phê phán và đầy tính nhân văn.





Phản Chiêu hồn


Hồn hề! Hồn hề! Hồn bất quy?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh[1] thành trung lai hà vi ?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ[2].
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề! Hồn hề! Suất thử đạo
Tam Hoàng[3] chi hậu phi kỳ thì.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi,
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La[4],
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà?

Chống lại bài Chiêu hồn


Hồn ơi! Sao chẳng trở về?
Ðông tây nam bắc chở che chốn nào?
Dù đất thấp trời cao chẳng ổn,
Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau.
Thành đây, dân cũ còn đâu,
Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưa.
Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ,
Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần.
Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm,
Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon!
Hồ Nam kia thấy không trăm xóm,
Toàn những người gầy ốm xanh xao.
Hồn ơi! Lối ấy theo nhau,
Ðời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời.
Thu tinh thần về nơi Thái cực,
Chớ về đây người chực mỉa mai.
Thượng quan thời buổi ai ai,
Khắp trên đất rộng sông dài: Mịch La!
Cá rồng nuốt, sói hùm tha,
Hồn ơi! Hồn hỡi! Hồn mà làm sao?
Nguyên tác và bản dịch bài thơ :























1. Yên thuộc đất Sở, Dĩnh (hay Sính) là kinh đô của Sở, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc.
        2  Cao, Quỳ là hai vị quan giỏi đời Ngu Thuấn.
3  Có thuyết cho đây là ba vị vua Phục HyThần Nông và Hoàng Đế thời cổ đại.
4  Mịch La là khúc sông hợp lưu của hai sông Mịch và La, nay ở phía bắc huyện Tương Âm, tỉnh Hồ Nam, sau còn gọi là sông Khuất Đàm vì Khuất Nguyên tự trầm ở đấy.

*
Bạn đọc thấy đấy, những người yêu nước vĩ đại như Khuất Nguyên luôn được nhân loại hai ngàn ba trăm năm nay tưởng nhớ, biết ơn còn như bọn gian thần Ngận Thượng, Trịnh Tụ, Tử Lan bán nước cầu vinh, đều bị nhân dân muôn đời nguyền rủa.
Thương Dân Dân đội lên thờ,
Hại Dân Dân đái ngập mồ cho coi.
(1) Một con sông lớn chảy qua tỉnh Hồ Nam, rồi nhập vào hồ Động Đình.
(2) Theo Khuyết Nguyên Liệt truyện - Sử ký – Tư Mã Thiên)

Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2013

Tám mươi năm, chị tôi chân trần lội bộ qua cõi thế mù lòa…

Tám mươi năm, chị tôi chân trần

lội bộ qua cõi thế mù lòa…


 [Khóc chị Cả Thái Thị Thiệu]


THÁI DOÃN HIỂU




Ngày 27-4 âl tức ngày 4-6-2013 tới đây là ngày chị Cả Thái Thị Thiệu của tôi  rời cõi thế được 7 năm. Biết bao thương nhớ một Con Người trong khoảng thiền định ấy. Mỗi người là một số phận, số phận ấy làm nên loài người và thế giới. Đằng sau ánh hào quang của tám chữ vàng mà Hồ Chủ tịch tặng chị em phụ nữ Việt NamAnh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” là mặt trái sần sùi những vinh quang cay đắng mà các chị các mẹ phải âm thầm chịu đựng nỗi đau một mình. Nhân dịp này, tôi muốn bạch hóa tâm hồn tôi để bà con họ Thái, họ Đào cùng bạn đọc suy ngẫm về số phận chị tôi, cũng là một kiếp người mong manh trong cõi vô thường.



Ngày 24-5-2006, Chị sửa soan về với Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, chị Thanh, anh Hợi, cháu Đại…
Ở trong này, vợ em bị trọng bệnh, cả nhà đang huy động chống bệnh K, không về được chịu tang và tiễn chị lần cuối, lòng em thật đau xót trước cảnh tử biệt sinh ly.
Chị ơi, xin nán lại ít phút cho em thưa chuyện đôi lời.

Theo lá số tử vi do ông thầy Tam Đồng cho, em còn giữ đây thì Chị sinh ngày 2-11 Đinh Mão 1927, cầm tinh con mèo. Chị có 6 người em nữa: Thái Thị Thanh (1931-2001), Thái Doãn Hợi (1935-1992); Thái Doãn Sửu (1937-2012); Thái Doãn Hữu 1941, Thái Doãn Hiểu 1943, Thái Thị Tâm 1948. Chị là chị Cả của các em. Khi còn nhỏ, cả nhà trìu mến thân mật gọi chị là Chắt Ả. Chắt Ả có biệt danh Nhóc Chìa Khóa. Cái tên đáng yêu này có lẽ được đặt theo sự mô phỏng hình thể mảnh mai của Chị, cũng có thể do Chắt Ả nghịch ngợm ưa đeo vào cổ chùm chìa khóa to sụ xủng xoảng của cố cụ Tuần mà Cố âu yếm tặng cho cũng nên !

Cùng với Chắt Em (chị Thanh) làm thành một cặp tố nga, hai chị em lớn lên trong tình thương yêu chăm bẵm của cha mẹ và ông bà nội ngoại.

Năm 1946, 19 tuổi Chị về làm dâu họ Đào. Thuở ấy, thiên hạ trầm trồ đồn đại là Chị đẹp nhất làng Lễ Nghĩa, sau khi một người đẹp là O Thái Thị Yên của chúng ta cùng về làm dâu họ Đào đã đột ngột qua đời. Còn bé nhưng em cũng biết nhận ra là Chị của em đẹp thật. Một vẻ đẹp đoan trang thuần hậu: da tráng mịn, cặp mắt huyền mơ thăm thẳm, tóc dài mượt với chiếc seo gà vấn trần duyên dáng. Chị có bộ xà tích bằng bạc chạm trổ  tinh xảo xúng xính chảy dài trên chiếc  váy lụa màu nâu. Em rất hãnh diện có được một người chị gái đẹp như thể từ trong tranh bước ra.  Về sau, những trai làng thường yêu thầm nhớ trộm Chị mà không với tới vẫn đến nhà ta chiêm quan dung nhan kiều diễm của Chị từ những bức hình treo trên tường. Dương Trọng Kỷ ở xóm Thượng là một anh chàng như thế. Có lần, em thấy anh ta đứng chôn chân trước bức hình Chị khoác áo bađơxuy bế Cu Chắt (Quang) miệng cứ lẩm nhẩm hoài “Đẹp ! Đẹp ! Con mẹ đẹp thật! ”.Em và cả cha mẹ nữa rất hài lòng trước cử chỉ si tình của những gã đàn ông thật lòng.

Ngày Chị về nhà chồng, anh Hợi viết trong Hồi ức về mẹ: “Hôm đưa dâu, chỉ còn lại mẹ và con (anh Hợi), nhà trống vắng buồn tênh. Mẹ quét nhà khóc rấm rứt làm con cũng tủi và khóc theo. Hôm sau, hai mẹ con đi Lễ Nghĩa cùng các mự. Trông thấy em, Chị kéo con ra đầu hồi nhà cùng khóc với nhau. Cuộc chia tay bình thường mà sao ghi đậm trong ký ức con nỗi buồn tê tái”.

Chị đi làm dâu nhà người. Anh rể là Đào Văn Vinh, sinh năm Giáp Tý  1924. Nhà anh cũng gia thế. Anh chị được ông bà dựng cho một ngôi nhà riêng xinh xắn với đầy đủ tiện nghi sang trọng nằm dưới chân đồi mé vào làng. Anh rể phương phi cao lớn, hay khoác bludông, về sau vận quân phục sĩ quan, bêrê luôn trên đầu sành điệu và rất “mốt”, đường đường là một nam tử hánmn  . Anh sớm sung lục quân làm lính danh tướng Nguyễn Sơn, lúc đó đóng đại bản doanh trong nhà anh. Em thấy khi tiếp khách thường là các quân nhân ở nhà ta, anh nói năng ít nhưng bặt thiệp, hào hứng. Cha mẹ rất quý trọng ông con rể đầu và anh luôn được đối xử trân trọng như một vị thượng khách.

Làng Lễ Nghĩa, xã Minh Sơn, huyện Đô Lương thanh bình những nếp nhà nho nhỏ nằm lẫn giữa xanh rờn tre pheo cùng với tình bà con họ hàng đã để lại trong em những ấn tượng sâu đậm. Em nhớ đến dượng Uông người thường trèo thoăn thoắt lên cây ổi tàu cao sau vườn nhà dượng. Lũ trẻ xúm quanh, quả chín dượng lựa cho cháu còn quả ương dành cho con mình Hàm, Hạn (Hồng). Em nhớ đến chú Đào Văn Tiên, sau đổi tên là Tiến, đi lính, rồi làm chuyên gia văn học Lào ở Viện Văn học. Hồi đó, chú chỉ đường cặn kẽ cho em đi từ chòm Sáu lạc qua chòm Mười. Em nhớ đến các o thôn nữ rúc rích cười duyên sau nón. Em nhớ đến tấm lòng sâu nặng ruột thịt của người o kế: O Uông với những đứa em thương mến.

Anh ra trận, Chị vò võ nuôi con chờ chồng. Người xưa nói “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai về), lòng chung thủy của Chị tôi bao phen tưởng chừng hóa đá ! Bom đạn chiến tranh ít bén mảng đến làng quê heo hút, nhưng những năm tháng dài dằng dặc và thê thiết ấy, Chị tảo tần nắng mưa với ruộng đồng, với phấp phỏng hy  vọng...

Chị sống rất tình  cảm. Chị hay nhớ nhà, nhớ cha mẹ, các em. Vài tháng lại thấy mẹ con chị lếch thếch tha nhau về ngoại. Nếu có được tin nhắn thì em ba chân bốn cẳng chạy tuốt xuống tận Đồng Lạc, Hội Tâm đón chị và  cháu Quang bấy giờ là một cậu bé bụ bẫm khôi ngô thôi không còn phải chạy lon ton, sướng rơn nhảy lên lưng “cụ” (cậu) Hiểu làm ngựa cho cưỡi. Mỗi lần chị về nhà vui như tết. Chị nhanh nhẹn dùng câu liêm ngoặc từng chùm dừa xuống, dùng một con dao nhỡ thật bén, thoăn thoắt đẽo bổ từng quả dừa mọng nước, với cùi thơm ngon cho các em Chị và cháu sì sụp cùng ăn. Chị vào vườn hái ổi, trẩy cam, cắt chuối, nấu các món ăn chị ưa thích, hoặc đứng bên bờ ao dùng mâu lựa từng con cá mè lớn như cái  quạt mo xiên vào hông lôi lên kho tương cùng khế. Hôm nào không có gì, chị hái  mấy quả đu đủ xanh, loáng một cái đã có một món nộm chua ngọt dòn dòn tuyệt hảo. Thích nhất là được ngồi lục vấn Cu Chắt để được  nghe những câu trả lời ngọng ngịu, đai cái giọng Lễ Nghĩa từ miệng trẻ : “Quang ! Doạ - Con ai ? – Con mẹe. Cái gì đây ? - Điều chưa, Cẹnh néch…” Những lúc nhìn cậu cháu, nô đùa mặt chị như tỏa nắng. Mẹ con, ông bà, chị em, cậu cháu, dì cháu tha hồ hàn huyền biết bao là chuyện. Rồi, ngày vui ngắn ngủi chóng trôi qua, mẹ con Chị xin phép ông bà ngoại về nhà. Lần nào cũng vậy, em để ý thấy Chị không bao giờ quên vạch một vệt lọ nghẹ đen nhẻm lên trán cu Chắt. Em chẳng bằng lòng chút nào cả vì như thế là làm xấu cái gương mặt tiên đồng của thằng bé. Chị bảo làm thế  là để ma qủy chê mà tránh ra xa. Em lại tiễn chị và cháu đến tận làng Trung Hậu. Bảy cây số cuốc bộ, đường xa loanh quanh diệu vợi. Nhìn theo bóng Chị lủi thủi tha con khuất néo cuối thôn, lòng em dào lên nghẹn ngào…

Cảm hiểu được nỗi buồn riêng côi cút của mẹ con Chị trong ngôi nhà trống vắng, em năng xuống thăm Chị, thường là chốc lát, có khi dăm bữa không chừng. Em nhớ không quên tiếng của cặp tắc kè cứ thảng thốt riết róng dóng lên đầu hồi nhà, nghe thật sốt ruột hoang dã.

Chị em, cậu cháu lui cui ở trong nhà cũng đỡ quạnh. Quang tám tuổi nghịch đào dế ở ngoài sân. Chị đang thụ bệnh, yếu lắm, nhưng cố lết ra ngồi phân loại đống khoai lang như trái núi con vừa dỡ. Em cùng Ngọ và Giáp ra đồng đào khoai. Gớm, cái năm khoai lang được mùa chưa từng thấy. Tay chân đàn bà con gái yếu đuối như Chị, đánh vồng vẹn vẹo, lam nham. Thế mà hễ bổ cào sắt xuống, lật lên, củ quá xá củ, củ lớn bóng  nhẫy dày đặc từng chùm lăn phơi đầy mặt đất. Rõ là khoai đất lạ mạ đất quen. Chính vì thế mà khoai bị chắn đứt nhiều vô kể. Em bàn với hai chú Giáp và Ngọ để tránh khỏi bị  ả “dức” (mắng), cả ba đứa đồng tình ném xuống ruộng, thủ tiêu hết số khoai bị cào sắt sát thương. Chuyện ấy xẩy ra năm 1955, bây giờ là năm 2006, vừa đúng hơn nửa thế kỷ, giờ em xin thú tội với Chị chính em là thằng đầu têu đề ra “tối kiến” ấy, Chị có mắng em không  ?

*

Tiếng súng giặc vừa dứt, thì Giảm tô rồi Cải cách ruộng đất ậpđến. Những cuộc thanh trừng bắn giết kinh hoàng làm làng quê khiếp đảm và các gia đình họ Đào của Chị tan nát. Ông Oanh, rồi dượng Uông lâm nạn. Tang chế chồng chất thương đau. Chị bị quy kết thành phần “bóc lột”. Nào, Chị tôi cả đời có bóc có lột của ai cái cái gi đâu cho cam! Cuộc sống của Chị lại chìm trong tối tăm, câm lặng. Hòa bình lập lại, anh từ Côn Minh Trung Quốc trở về. Mãi đến năm 1957, anh mới đón chị và Quang ra Bạch Mai, Hà Nội đoàn tụ gia đình. Cũng năm 1957, anh chị sinh cháu Minh. Tưởng được yên ấm nhưng phải lộn về quê vì Chị không quen với lối sống thị thành. Năm 1960, anh phục viên chuyển ngành sang làm Trưởng phòng hành chánh Công ty Kiến trúc Vinh. Giữa cảnh khốn khó mà vui, năm 1963, cháu Chính ra đời. Năm 1965, anh chị có thêm út Đại.

*

Trong phong trào dời làng hãi hùng năm 1966, gia đình Chị cùng gia đình O Uông, dì chắt Trới – chú Chi trong diện bị đày lên Mưng Rọm, Nghĩa Dũng, huyện Tân Kỳ. Nơi đây rừng thiêng nước độc, ông nội ta đã từng lên làm kinh tế trang trại và đã bỏ mình vì sốt rét ác tính năm 30 tuổi (1915). Thôi thì lánh đi cho khuất mắt nơi đã xẩy ra bao biến cố đau lòng. Em đi Thanh niên xung phong mở đường 15  từ Phà Sen cặp theo sông Hiếu ở phía tả ngạn, băng qua bản Gò Khế, đổ vào nông trường Đông Hiếu, chỗ Dốc Lụi. Một lần đạp xe đi công tác về xuôi, nghe cha nói là Chị đã dời làng định cư ở cái thôn ven đường. Em tìm vào thì thấy cái xóm ba nhà, nhà tranh vách đất chênh vênh trên quả đồi trơ hoèn sỏi đá. Chị và mấy đứa cháu Minh Chính Đại lít nhít dúi dụi nép vào một góc, mắt thô lố nhìn ra, lạ lẫm. Máy bay Mỹ quần đảo bắn phá suốt ngày đêm dọc tuyến 15 như chốn không người. Vậy mà mấy con chị sống lộ thiên không có lấy một cái hầm trú ẩn !. Thật ái ngại. em quyết định dừng lại một ngày, cật lực đào cho xong bằng được cái hầm ở ngay thềm nhà, rồi mới tạm yên lòng ra đi. Xe lăn bánh về xuôi mà lòng em cứ dùng dằng không nỡ dứt.

Ít lâu sau, khi chuyển về đóng chốt ở trọng điểm giao thông Cầu Cấm, em rụng rời nghe tin toàn bộ cơ ngơi tạm bợ đó của Chị bị hỏa hoạn đốt nương của một cư dân khai hoang nào đó thiêu rụi. Họa vô đơn chí, chó đớp phải quần cộc. Tội nghiệp Chị tôi !

*

Năm 1996, Chị vào Sài Gòn thăm các em và các cháu. Được mấy tuần, Chị cứ dóng dả đòi về. Chị nói “ Cậu cho Chị về. Chị phải về nhà để nuôi bầy gà cho thằng Đại ra quân có cái bồi dưỡng cho nó. Thương quá, bên Lào khổ lắm, nó gầy giơ xương ”. Trời, cháu Đại hy sinh lâu rồi mà Chị chẳng hay biết gì. Chỉ vì không nỡ để bệnh tâm thần của Chị gia tăng nên cả  nhà đồng tình ém nhẹm chuyện thương tâm này. Câu nói hồn nhiên của Chị làm tim em nhói đau.

Cái ngày mấy anh em tìm được thi hài Đại giữa rừng Lào đem về, Chị hóa điên, bứt tóc kêu trời, gào Đảng và Chính phủ “trả con cho tao...” “Sao các người ác thế.”… “Chín năm chống Pháp mòn mỏi nuôi con chờ chồng. Chống Mỹ, thằng anh ra trận. Hòa bình thằng em tưởng được tha…” .  “Nuôi con chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau, vượt cạn một thân mình, chăm chẵm từng ly từng tý, nâng từng bước đi, giữ từng giấc ngủ, những lúc trái gió trở trời thức trắng đêm, thế mà các người nỡ chiếu luật thuế máu, bắt nó như bắt giặc, đẩy nó ra trận, đòm một phát, thế là đi đời bao công lênh của mẹ. Các người dã man lắm. Các người còn là con người nữa không ? Con ơi là con, đứa con thiên thần 19 tuổi của mẹ !Tổ quốc của con đâu phải ở bên Lào ?...”  Chị ôm chặt bộ hài cốt của thằng Út gói ghém trong ba lô con cóc dã chiến vật vã suốt mấy đêm  ngày trên giường, nước mắt kiệt khô, thân xác rã rời, tiều tụy. Lòng mẹ bao la. Chị ru cho Đại ngủ như thuở còn ấu thơ.

Trong cái chết oan uổng của con trẻ, chính người lớn chúng ta  phải chịu trách nhiệm bởi sự cuồng tín vô lối !?

*

Kiếp người ngắn ngủi, ảo ảnh mong manh giữa một thế giới rỗng không. Chúng ta đang sống trong thời đại hỗn mang lẫn lộn đúng-sai, tốt-xấu, thật-giả, khóc-cười. Suốt 80 năm qua, Chị tôi chân trần lội bộ qua cõi thế mù lòa, điếc lác. Chân Chị toé máu ! May thay , Chị thật có phước, có anh đồng hành trên đời - anh Đào Văn Vinh. Anh là người đàn ông hiền đức. Bao phen, anh băng bó vết thương cho Chị tôi. Chung thân, anh chăm Chị bệnh tật bằng tấm lòng của đấng trượng phu với nhiều vai: khi là chồng, khi là cha, có khi lại là người anh, nhẫn nại trong yêu thương, không một lời than thở phàn nàn. Cả anh và Chị đã mở rộng lòng từ bi hải hà ra tự nguyện gánh vác giang sơn tan đàn sẻ ghé nhà chồng. Anh chị đã thật sự là cha mẹ ruột đầy tin cậy của bầy cháu côi cút mất cha, chu tất lo cho chúng đến độ trưởng thành.

*

Vinh + Thiệu = Quang - Minh – Chính - Đại, những cái tên thật thân thương, thể hiện chín muồi kỳ vọng của anh chị về tín điều đạo đức giữa trời cao đất dày. Các cháu đều là những đứa con trưởng thành và hiếu thảo. Đào Văn Quang tốt nghiệpĐại học Sư phạm Vinh, là thầy giáo vật lý, hiệu trưởng trường cấp III Dân chính huyện Tân Kỳ. Đào Thị Minh làm thợ dệt ở nhà máy dệt Vinh. Đào Thị Chính tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, hiện sống là làm việc với chồng là luật sư Hoàng Xuân Sơn tại thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ Đào Văn Đại là thiệt thân, chưa kịp lớn thành người. Cả anh và Chị đều vươn tới đỉnh bát tuần đại khánh. Phúc đức khán nhi tôn. Phúc đức  nhất  là anh chị được sống trong cảnh tứ đại đồng đường. Mấy ai trong đời đạt được ngưỡng ấy !


20 h ngày 28-4 năm Bính Tuất, tức là ngày 25-5-2006, thôi em đành dứt áo để Chị ra đi. Nhà Phật nói “Sống gửi thác về”. Cha mẹ, chi Thanh, anh Hợi, cháu Đại, có cả Cố Cụ Tuần lọ mọ chống gậy ra ngõ đón Chị dưới ấy. Lại có cả ông bà Oanh, O dượng Uông, bác Mai, bác Hường, chú Hinh với Huy… đông lắm . Chết là sự giải thoát ở trần gian. Đường về tiên giới của Chị thật thênh thang. Chị đi hợp lẽ trời, thuận lòng người. Hồng tang ! Hồng tang ! Chị đi hãy cởi bỏ lại những đắng cay lẫn ngọt bùi cho nhẹ gánh, thanh thản giã từ cõi tạm nơi hành xác Chị suốt cả thế kỷ bão táp máu lửa để siêu thăng vào cõi nhớ. Cụ Nguyễn Tiên Điền bảo “Thác  là thể phách còn là tinh anh”. Tinh anh của Chị mọi người còn trân trọng giữ nguyên ở đây.

Chị đi trước rồi các em cũng sẽ lần lượt theo sau. Chỉ tiếc là trên cuộc người khốn khó và buồn này từ nay vắng bóng người chị Cả thân yêu. Còn đâu nữa, người chị nhân từ thích ăn ngon, mặc đẹp, khi tâm bệnh phát ra thì nói năng lưu loát toàn là những lời có cánh. Còn đâu nữa người để được em đưa chị bách bộ rong chơi qua các phố thị Sài Gòn hoa lệ, chụp cho Chị những bức hình lưu niệm. Còn đâu nữa mỗi lần viết xong một cuốn sách để được cất bút đề lên trang đầu “Thân quý tặng anh chị Cả”. Còn đâu nữa, mỗi lần về quê Nghệ, thuê xe ôm lên núi Tân Kỳ thăm để được Chị trìu mến nhìn như nuốt lấy em, rồi se sẽ thốt lên “Cụ” (em tôi).


HƯƠNG VIÊN CÁC -
những ngày tang chế 24-27-5-2006
[Rút trong ÂM VANG CỦA TIỀM THỨC, chương 35

Hồi ký của Thái Doãn Hiểu, chưa in]