Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Hình ảnh.

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2015

THỬ LẬT LẠI HỒ SƠ ĐỂ HIỂU BẢN CHẤT VỤ ÔNG HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG KIỆN GS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG

THỬ LẬT LẠI HỒ SƠ ĐỂ HIỂU BẢN CHẤT VỤ ÔNG HIỆU TRƯỞNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG KIỆN GS NGUYỄN ĐĂNG HƯNG

THÁI DOÃN HIỂU

Chúng tôi đã có điều kiện theo dõi việc tranh chấp về tờ báo khoa học “Asia-Pacific Journal on Computational Engineering (APJCEN) ”, khởi động từ ngày 30/4/2014 khi ông Hiệu trưởng trường Đại học Tôn Đức Thắng (HT.TĐT) viết thư  [1] cho Ban Biên Tập quốc tế, rồi sau đó việc khởi kiện tại Tòa án Nhân dân Quận 9 TP. HCM, và cùng một lúc (!) khởi tố hình sự tại Công An Q7, TP. HCM tháng 7/2014.

Bài này đã được chuẩn bị từ tháng 9/2014, nhưng hay tin HT.TĐT rút đơn kiện vào ngày 22/8/2014 và GS. Nguyễn Đăng Hưng (GS NĐH) đã cho qua, không phản tố, chúng tôi đã ngừng lại phản ứng, đồng ý để cho vụ việc lắng xuống.


Nhưng nay chúng tôi có được tin là vụ rút đơn kiện chỉ là một động tác tình thế, HT.TĐT đã vào đơn kiện lần 2 cũng tại quận 9 và GS NĐH đang ở nước ngoài, đã nhận giấy triệu tập ngày 18/12/2014 của thẩm phán  Lê Long Toàn.

Không thể im lặng được nữa chúng tôi bắt buộc phải lên tiếng.

Được GS NĐH cung cấp đầy đủ hồ sơ (xem phần tài liệu dưới đây), chúng tôi cho rằng việc này không chỉ là việc tranh chấp giữa cá nhân ông và GS. NĐH mà còn là việc liên quan đến học thuật nước nhà, đến việc nghiên cứu và công bố khoa học ra quốc tế, đến thể diện giới giáo dục và khoa học Việt Nam trước các nhà khoa học và nhà xuất bản quốc tế, đến các chính sách mới của Chính phủ Việt Nam vừa mới ban hành nhằm khuyến khích các nhà khoa học Việt kiều hay nước ngoài tham gia phát triển giáo dục và khoa học Việt Nam.
Chúng tôi công bố bài này trước công luận, cho rộng đường dư luận, với mục đích thông tin cho cả nước và giới khoa học quốc tế quan tâm đến nội dung đích thực của vụ kiện, ngõ hầu ngăn chặn kịp thời những tác hại có thể gây ra vì hành động thiếu sáng suốt của HT.TĐT.

Hành động bất cập của HT.TĐT đã sớm tỏ rõ trước mặt 60 nhà khoa học quốc tế cuối tháng 5/2014 vừa qua [1].

Bài này có mục đích nhìn lại diễn tiến, xem xét các dữ liệu hồ sơ để thấy rõ tường tận trắng đen, đúng sai.

Cũng xin nói rõ ở đây chúng tôi trình bày sự việc một cách khoa học, nói có sách, mách có chứng bằng những hồ sơ kèm theo đáng số từ [1] đến [10].

Thật vậy, được biết một hợp đồng đã được ký kết giữa (S NĐH và Hiệu trưởng ĐH. Tôn Đức Thắng (HTTĐT) ngày 27/7/2012 [2] với tư cách là cố vấn cao cấp, không ràng buộc thời gian hiện diện, với nội dung là tư vấn cho việc hoàn chỉnh kế hoạch, hỗ trợ phát triển nhóm nghiên cứu khoa học, quy tụ nhân sỹ quốc tế giúp ĐH TĐT phát triển khoa học công nghệ.
Điểm thứ tư liên quan đến vụ kiện là Lên kế hoạch với sự hỗ trợ nhân sự và tài chính của ĐH TĐT, xây dựng một tạp chí khoa học bằng tiếng Anh với mục tiêu được cộng đồng quốc tế công nhận theo tiêu chuẩn ISI trong tương laiCủng cố và đào tạo nhân lực có thể vận hành và đảm đương việc thẩm định bài vở cho tạp chí”.
Như vậy qua năm 2013, khi tạp chí APJCEN ra đời GS. Hưng đã hoàn thành nhiệm vụ đề ra, chẳng những lên kế hoạch mà còn cùng với nhà xuất bản danh giá Springer thực hiện một tạp chí quốc tế thường trực trên mạng hội đủ điều kiện để đạt mục tiêu.
Sự có mặt của logo ĐH TĐT trên trang bìa, của ban Thư ký đặt địa chỉ chính thức tại ĐH TĐT xuất hiện trên trang giao diện của APJCEN ngay ngày đầu tiên đã giúp cho uy tín thương hiệu của ĐH TĐT sáng chói và vươn ra quốc tế. Một cách nghiễm nhiên ĐH TĐT đã trở thành thành viên song hành với cố vấn cao cấp của mình cùng với nhà xuất bản Springer sáng lập tờ báo.

Những tưởng HT.TĐT sẽ bằng lòng với vị trí danh giá ấy, nhưng không. Trước khi số thứ nhất của APJCEN xuất hiện trên mạng ông đã gởi cho GS.NĐH một thư bảo đảm trong ấy đưa ra những đòi hỏi rất quá đáng. Trong thư này [3] gởi ngày 27/2/2014 HT.TĐT ngang nhiên khẳng định:
“TDTU là đơn vị sáng lập tạp chí và GS là người được nhà trường phân công (bổ nhiệm) là TBT theo hợp đồng”.
Đây chính là một thư khai chiến đi đến việc chấm dứt mối tương quan nồng thắm giữa GS NĐH và ĐH TĐT.
Trước nhất, chưa bàn đến sự khiếm khuyết về những cơ sở học thuật, những đòi hỏi trên đây đã trắng trợn vi phạm hai văn bản có giá trị pháp luật. Thật vậy, thứ nhất, điều 4 của hợp đồng làm việc mà ông đã ký không hề nói đế việc phân công bổ nhiệm Tổng Biên Tập cũng như việc xác định TDTU là đơn vị sáng lập.
Thứ hai, để tránh phải vi phạm Hợp đồng sáng lập APJCEN [4] mà GS NĐH đã ký với Springer, GS NĐH đã bắt buộc nói không trong thư từ nhiệm [5] ngày 23/3/2014 như sau:
TDTU đã phân công (bổ nhiệm) tôi là TBT qua văn bản nào và trên cơ sở gì? Hợp đồng tôi ký với TDTU chưa hề nhắc tới từ TBT!
TDTU có cơ sở nào để tự phong cho mình là nhà sáng lập và việc phân công bổ nhiệm là việc của ban biên tập gồm 45 nhà khoa học tiếng tăm được nhà xuất bản danh giáSPRINGER tín nhiệm. TDTU không thể tự nhận cái của người khác và TDTU không có tư cách chuyên môn uy tín khoa học gì để phân công bổ nhiệm các chuyên gia khoa học cao cấp cả…
Điều lạ lùng là HT.TĐT đã biết rõ nội dung Hợp đồng sáng lập vì GS NĐH đã chuyển cho ông ngay sau ký một bản sao. Văn bản đó xác nhận ai đã ký Hợp đồng sáng lập APJCEN [4], và theo thông lệ những người ký hợp đồng sáng lập là đương nhiên được luật pháp coi như thành viên sáng lập thực thụ.
Tuy sau này HT.TĐT tìm cách nói không có ý định tranh dành tờ tạp chí vì phản ứng đanh thép của Springer thành viên chủ quản tạp chí. Nhưng ai cũng biết nhất là từ ngày GS NĐH công bố một hồ sơ gốc [6], ngay từ đầu (7/2/2013), HT.TĐT đã muốn:  “Thành lập một tạp chí tiếng Anh có tầm quốc tế của Trường đại học Tôn Đức Thắng và tạp chí này thuộc về Trường đại học Tôn Đức Thắng”.
Sự tránh né của HT.TĐT trong đơn kiện tại Q9 đã mâu thuẩn với nội dung khởi tố hình sự GS NĐH tại Công An Q7. Báo chí đã đăng tải nội dung này [7] vì luật sư của HT.TĐT đã công bố nội dung nguyên đơn, bất chấp đây chính là hành động vi phạm luật tố tụng nhằm mục đích bôi nhọ GS NĐH. Đọc nội dung sau đây, ta thấy HT.TĐT đã không che dấu được chủ tâm đoạt lấy vai trò chủ quản APJCEN:
“Trường ĐH Tôn Đức Thắng cũng tố cáo ông Hưng “lừa đảo” khi “ngầm thỏa thuận với nhà xuất bản để gạt vai trò sáng lập, chủ quản của trường ra khỏi tạp chí...”
Quả thật HT.TĐT đánh giá quá thấp nhà xuất bản Springer, một trong ba nhà xuất bản lớn của thế giới. Họ chọn lựa ký Thỏa thuận với Ban Biên Tập vì họ cần các nhà khoa học chuyên ngành mà GS.NĐH là đại diện. Sau khi văn bản thỏa thuận đã có, GS. Hưng đã chuyển ngay về cho nhà trường một bản sao. Một lối hành xử danh chính ngôn thuận như vậy mà HT.TĐT lại cho là “lừa đảo”, “ngầm thỏa thuận để gạt vai trò sáng lập của trường ĐH TĐT” là thế nào? Những lời trên đúng là những lời phỉ báng vậy.
Ngoài ra trong thư cho toàn bộ Ban Biên Tập APJCEN và nhà Xuất Bản Springer [1],HT.TĐT đã cố tình xúc phạm GS NĐH khi viết:
1.      Tôi đặt vấn đề về đạo đức và tính trung thực của Tổng Biên Tập Nguyễn Đăng Hưng (TBT NĐH)
2.      Tôi không chắc là TBT NĐH có bằng Tiến sỹ đặc biệt như đã nhắc đến trong lý lịch khoa học.
Vậy mà trong đơn kiện tại Tòa Án Q9, HT.TĐT đòi GS NĐH phải xin lỗi ông! Ai phải xin lỗi ai đây cho phải đạo?
Cũng xin nhắc lại là trong thư trả lời [8] ngày 3/5/2014, GS. NĐH đã có lời ôn tồn cùng ông như sau:
“ Tôi rất tiếc là trong thư nội bộ tôi viết cho Ban Biên Tập APJCEN (mà ông đọc được) tôi đã dùng chữ "arrogant" (để nói về nội dung thư của ông [3]) có thể làm ông cảm thấy bị xúc phạm. Tôi xin rút chữ ấy có thể gây cảm tính và xin thay bẳng các chữ khác diễn tả sự việc khách quan và phù hợp tình thế hơn. Đó là chữ "incorrect" hay "irrelevant". 
GS Hưng thêm :
“Tôi rất tiếc là chúng ta đã có bất đồng về APJCEN và bất đồng này đã làm sự cộng tác giữa chúng ta đã chấm dứt. Tôi mong mỏi sự chia tay này sẽ không phải quá căng thẳng vì thực lòng tôi vẫn còn giữ những kỷ niệm đẹp tại ĐH TĐT, nhất là giai đoạn tổ chức Hội Nghị khoa học ACOME”.
Một thái độ cầu thiện làm lành như vậy mà HT.TĐT không đáp ứng lại còn đưa đơn kiện, đòi đăng báo xin lỗi chính thức! Đây là một thái độ cố chấp quá đáng vậy.

Nội dung đơn kiện của HT.TĐT cũng có một điểm đáng ngạc nhiên. HT.TĐT đòi GD NĐH phải bồi thường 461.364.522 VNĐ, số tiền mà ĐH TĐT đã phải chi trả cho việc thực hiện tạp chí APJCEN”. Được biết để minh chứng cho việc chi tiêu, nguyên đơn chỉ có bằng chứng là tiền lương trả cho GS NĐH theo hợp đồng lao động [2] từ 1/7/2012 cho đến 31/3/2014. HT.TĐT đã không có một hóa đơn nhỏ nào minh chứng cho chi tiêu trực tiếp cho tạp chí APJCEN. Làm sao có được vì APJCEN là của Springer và nhà xuất bản đã đầu tư 100% cho tờ báo.
Thực chất vấn đề là HT.TĐT đòi lại tiền lương về một hợp đồng lao động với GS NĐH, một hợp đồng đã được thanh lý theo thoả thuận [9] có văn bản và chữ ký của đôi bên. Chẳng lẽ HTTĐT và các luật sư của ông không biết là đi kiện về nội dung một hợp đồng đã thanh lý là vi phạm Luật lao động? Trên thực tế hành động này còn mang một tội danh khác là tội BỘI ƯỚC. Thật vậy, trên thoả thuận chấm dứt hợp đồng GS NĐH đã có nghi rõ [9]: “KHÔNG CÓ GÌ PHẢI BÀN GIAO VÀ TRÁCH NHIỆM LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG VIỆC”.

Ngoài ra xem xét hồ sơ của nguyên đơn chúng tôi thấy có chuyên gia chung quanh ông tìm cách dành công, tự nhận đã làm đề cương và đã đứng ra thuyết phục nhà xuất bản Springer ủng hộ cho việc ra đời tạp chí APJCEN. Chúng tôi cho rằng HT.TĐT đã lầm to khi nghe lời họ. Thậy vậy, nếu đúng như thế tại sao họ không viết đề cương mới, tập hợp các nhà khoa học khác và thuyết phục Springer ủng hộ cho ra đời một tạp chí mới cho ông vui vẻ hả hê? Tại sao họ tư vấn cho HT.TĐT tiếp đi làm cái việc kiện tụng lung tung, gây tai tiếng không hay cho chính mình và trường mình!

Tóm lại, sau khi nghiên cứu đầy đủ các hồ sơ, sau khi xét vấn đề ở mọi khía cạnh chúng tôi không thấy có cơ sở gì cho một vụ kiện tụng. Có chăng chỉ là những thông tin thất thiệt với mục đích triệt hạ thanh danh của GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng, một giáo sư đại học, một nhà khoa học đã bỏ ra gần 20 năm của cuộc đời để về Việt Nam góp phần đào tạo nhân lực, phát triển giao lưu quốc tế cho các trường Đại học Việt Nam với những thành quả không thể phủ nhận được.

Thiết nghĩ những phát biểu vô căn cứ, những âm mưu nặc danh hay ra mặt nhằm mục đích xấu sẽ không thể nào đánh chìm được 40 năm hoạt động giáo dục và khoa học của GS NĐH, nhất là gần 20 năm đóng góp to lớn và hữu hiệu cho nền giao dục nước nhà.

Việc GS NĐH, tuy đã nghỉ hưu còn đứng ra thành lập tạp chí khoa học APJCEN, có sự ủng hộ của nhà xuất bản danh giá Springer, lại là một đóng góp đáng kể thêm, giúp các nhà khoa học trẻ Việt Nam nhanh chóng công bố các công trình quốc tế ra thế giới. Đây là một cống hiến đáp ứng yêu cầu phát triển, tăng cường giao lưu quốc tế mà Nghị quyết Trung ương 6 về phát triển Khoa học và Công nghệ đã khẳng định.
Công việc này không có thù lao nhưng khá phức tạp, cần nhiều tập trung công sức.
Việc HT.TĐT kiện tụng quấy rầy GS. NĐH đã gây không ít phản cảm cho Ban Biên Tập quốc tế  tạp chí APJCEN, cũng như đến lãnh đạo nhà xuất bản Springer.

Trong một bài viết trong tháng 8/2014 vừa qua [10], GS Phạm Quang Tuấn (Đại học New South Wales, Úc) đã phải thốt lên:
“Cho dù là thắng hay thua kiện, vụ kiện sẽ ảnh hưởng tai hại cho tiếng tăm của Đại học Tôn Đức Thắng… Giả sử Đại học Tôn Đức Thắng thắng kiện thì hậu quả lại càng tệ hơn vì sẽ gây công phẫn trong giới đại học và Việt kiều. Các giáo sư, chuyên viên ngoại quốc hay Việt kiều hẳn sẽ nhiều người ngần ngại hợp tác với trường. Không những thế, vụ này còn có thể gây tăm tiếng chung cho toàn thể giới Đại học Việt Nam”.

Liệu HT.TĐT có sớm ý thức được những tai hại nói trên, chấm dứt những hành động sai trái, không đi đến đâu, trở lại với lẽ phải vì quyền lợi chung của việc phát triển khoa học, công nghệ nước nhà, trong đó có việc phát triển Đại học Tôn Đức Thắng.

Người Quan Sát

TP. Hồ Chí Minh ngày 20/1/2015

Tài liệu minh chứng:

[2] Hợp đồng ĐH TĐT - NĐH
[4] Hợp đồng sáng lập APJCEN TBT-Springer
http://www.ndanghung.com/.../APJCE-Agreement-Springer_NDH...
[5] Thư từ nhiệm của NĐH
http://www.ndanghung.com/wp-content/uploads/Kính-gởi-TS-Lê-Vinh-Danh.pdf
[6] Thư điện tử đêm giao thừa
[7] Nội dung đơn tố cáo của ĐHTĐT tại Q7
[9] Thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động TĐT-NĐH
http://www.ndanghung.com/.../upl.../thoa-thuan-nghi-viêc.jpg

[10Vài ý kiến về việc Đại học Tôn Đức Thắng kiện Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng

Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013

THẦN THI VƯƠNG BỘT – VANG VỌNG CỦA PHƯƠNG ĐÔNG [kỳ 3]


 

 

 

 

 

 

 


THẦN THI VƯƠNG BỘT – VANG VỌNG CỦA PHƯƠNG ĐÔNG [kỳ 3]

 


Bút ký điền dã của THÁI DOÃN HIỂU

 
 
[d] VĂN NGHIỆP CỦA THI HÀO VƯƠNG BỘT :

 

 
[LỜI DẪN:   Thơ Đường hay Đường thi là toàn bộ thơ ca đời Đường được 2.300 nhà thơ người Trung Quốc sáng tác hơn 55.000 bài thơ trong khoảng TK 7 - 10 (618 - 907).

 

Thơ Đường chia ra làm 4 giai đoạn: 

Sơ Đường (618 - 713), 

Thịnh Đường (713 - 766), 

Trung Đường (766 - 835), 

Vãn Đường (835 - 907).        

Thời Sơ Đường, các nhà thơ mệnh danh là "Tứ kiệt" gồm Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương và Vương Bột đã đổi được phần nào phong khí uỷ mị của thơ các triều đại trước.       
Tới Trần Tử Ngang thì có phong trào đổi mới thi ca theo tinh thần phong nhã của "Kinh thi" và "phong cốt Hán Nguỵ", chủ trương làm thơ phải có "kí thác", nghĩa là nói lên tâm tình của mình, ghi lại cảm xúc thật sự của mình trước hiện thực đời sống, bỏ hẳn thơ sắc tình đời Lục triều, và thơ ca công tụng đức, thơ ứng chế của một số nhà thơ đầu đời Đường như Thẩm Thuyên Kỳ, Tống Chi Vấn.  
Các nhà thơ sau Trần Tử Ngang làm thơ "kí thác" đều theo 2 khuynh hướng chính là trữ tình, lãng mạn, hoặc hiện thực xã hội. Ba đại biểu lớn là Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị.    

Màu sắc phong cách của các nhà thơ đời Đường rất khác nhau, tuỳ người sáng tác theo đạo Nho, đạo Phậthoặc theo Lão Trang.          
Thơ Đường có loại thơ như sau: "biên tái" (Cao Thích, Sầm Tham), thơ "điền viên" (Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên), thơ "tân nhạc phủ" (Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn), thơ "chính nhạc phủ" đời Vãn Đường (Bì Nhật Hưu, Đỗ Tuấn Hạc) và theo khuynh hướng hiện thực (Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị).    


Các nhà thơ sáng tác theo 3 thể chính: thơ luật Đường, thơ Cổ phong và Nhạc Phủ           .

Những bài thơ hay nhất của Lý Bạch là thơ nhạc phủ và các bài cổ phong thích hợp với phong cách phóng túng của ông.
Đỗ Phủ thì dùng thể cổ phong khi làm thơ hiện thực và dùng thể luật thi khi làm thơ trữ tình        .

Về nội dung cũng như về nghệ thuật, khó tìm được những đặc điểm chung cho bấy nhiêu nhà thơ, sống ở nhiều hoàn cảnh lịch sử khác nhau, tư tưởng sở thích cũng khác nhau. Nhưng về ngôn ngữ, thơ Đường tinh luyện, súc tích, chọn lọc, âm điệu hài hoà, đa dạng, phong phú. Các nhà thơ Đường không nói hết ý mình khi làm thơ, đó là một cách làm cho người đọc cùng tham gia với nhà thơ trong việc thưởng thức bài thơ. Đời Đường được xem là thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Quốc thời phong kiến. Và người nước ngoài thường chỉ biết ba Đại thi hào đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị’, ít khi biết được sơ  Đường tứ kiệt – người tiên phong khai sơn phá thạch cho nền thơ trác việt này, đến nay vẫn là đỉnh cao của văn hóa nhân loại mà không một nền thơ nào trên thế giới vượt được nó.

 

 

             

Lý Bạch                  Đỗ Phủ                  Bạch Cư Dị

 

               

      Vương Duy                          Vương Bột

 

 

Một trong bốn nhà thơ kiệt xuất đó là Vương Bột

Trước tác còn lại của Vương Bột là bộ sách 16 quyển Vương Tử An tập (Tác phẩm của Vương Tử An), gồm sách biên khảo văn sử triết - viết  từ tài liệu sưu tầm của ông nội Vương Thông (2) và  nổi bật nhất là thơ         .
Bài văn nổi tiếng của ông là Đằng Vương Các Tự. Các tác phẩm lớn khác của Vương Bột trong bộ Vương Tử An tập có:

Hán Thư Chỉ Hà (10 quyển)

Chu Dịch Phát Huy (5 quyển)

Thứ Luận Ngữ (10 quyển)

Chu Trung Toản Tự (5 quyển)

Thiên Tuế Lịch 

Tất cả các tác phẩm trên đều bị thất bản.

 

Vương Bột tự Tử An, người đất Long Môn.  Sáu tuổi đã biết làm văn.  Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.  Vương có thói quen là mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn bút nghiên xong rồi nằm đắp chăn ngủ, khi tỉnh dậy, cầm ngay cây bút lên viết một loạt nên vần.

Chúng tôi xin trích dẫn dưới đây khoảng một chục bài thơ của Vương Bột để bạn đọc  hình dung sáng rõ tài thơ thần đồng của người:

 


 

 

Đằng Vương các tự

 

Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ.
Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư.
Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.
Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư;
Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.
Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì,
Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ.
Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm;
Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú.
Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân;
Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.
Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông;
Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố.
Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.

Thời duy cửu nguyệt, tự thuộc tam thu.
Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh, yên quang ngưng nhi mộ sơn tử.
Nghiễm tham phi ư thượng lộ, phỏng phong cảnh vu sùng a.
Lâm đế tử chi Trường Châu, đắc tiên nhân chi cựu quán.
Tằng đài tủng thuý, thượng xuất trùng tiêu;
Phi các lưu đan, hạ lâm vô địa.
Hạc đinh phù chử, cùng đảo tự chi oanh hồi;
Quế điện lan cung, liệt cương loan chi thể thế.
Phi tú thát, phủ điêu manh,
Sơn nguyên khoáng kỳ doanh thị, xuyên trạch hu kỳ hãi chúc.
Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia;
Khả hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục.
Hồng tiêu vũ tễ, thái triệt vân cù.
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Ngư chu xướng vãn, hưởng cùng Bành Lễ chi tân;
Nhạn trận kinh hàn, thanh đoạn Hành Dương chi phố.

Dao khâm phủ sướng, dật hứng thuyên phi.
Sảng lại phát nhi thanh phong sinh, tiêm ca ngưng nhi bạch vân át.
Kỳ Viên lục trúc, khí lăng Bành Trạch chi tôn;
Nghiệp thuỷ châu hoa, quang chiếu Lâm Xuyên chi bút.
Tứ mỹ cụ, nhị nan tinh.
Cùng thê miện vu trung thiên, cực ngu du ư hạ nhật.
Thiên cao địa huýnh, giác vũ trụ chi vô cùng;
Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số.
Vọng Trường An vu nhật hạ, chỉ Ngô Hội ư vân gian.
Địa thế cực nhi nam minh thâm, thiên trụ cao nhi bắc thần viễn.
Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân ?
Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách.
Hoài đế hôn nhi bất kiến, phụng Tuyên thất dĩ hà niên ?

Ta hồ!
Thời vận bất tế, mệnh đồ đa suyễn.
Phùng Đường dị lão, Lý Quảng nan phong.
Khuất Giả Nghị vu Trường Sa, phi vô thánh chủ;
Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc, khởi phạp minh thời.
Sở lại quân tử an bần, đạt nhân tri mệnh.
Lão đương ích tráng, ninh tri bạch thủ chi tâm ?
Cùng thả ích kiên, bất truỵ thanh vân chi chí.
Chước Tham tuyền nhi giác sảng, xử hạc triệt dĩ do hoan.
Bắc hải tuy xa, phù dao khả tiếp;
Đông ngung dĩ thệ, tang du phi vãn.
Mạnh Thường cao khiết, không hoài báo quốc chi tâm;
Nguyễn Tịch xướng cuồng, khởi hiệu cùng đồ chi khốc!

Bột tam xích vi mệnh, nhất giới thư sinh.
Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quán;
Hữu hoài đầu bút, mộ Tông Xác chi trường phong.
Xả trâm hốt ư bách linh, phụng thần hôn ư vạn lý.
Phi Tạ gia chi bảo thụ, tiếp Mạnh thị chi phương lân.
Tha nhật xu đình, thao bồi Lý đối;
Kim thần phủng duệ, hỉ thác Long môn.
Dương Ý bất phùng, phủ Lăng vân nhi tự tích;
Chung Kỳ ký ngộ, tấu lưu thuỷ dĩ hà tàm ?

Ô hô!
Thắng địa bất thường, thịnh diên nan tái.
Lan Đình dĩ hĩ, Tử Trạch khâu khư.
Lâm biệt tặng ngôn, hạnh thừa ân ư vĩ tiễn;
Đăng cao tác phú, thị sở vọng ư quần công.
Cảm kiệt bỉ thành, cung sơ đoản dẫn.
Nhất ngôn quân phú, tứ vận câu thành.
Thỉnh sái Phan giang, các khuynh lục hải vân nhĩ.

Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam Phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

Bài tựa về gác Đằng Vương

(Đây là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.
Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.
Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.
Lúc này đương là tháng chín, thuộc về ba thu.
Nước rãnh cạn, đầm lạch trong; ánh khói đọng, núi chiều tia.
Trông ngựa xe trên đường cái; hỏi phong cảnh nơi gò cao.
Đến miền Trường Châu của đế tử; tìm được quán cũ của người tiên.
Núi non cao biếc, nhô khỏi lớp mây; bóng gác bay, màu son chày, dưới không sát đất.
Bến hạc, bãi phù quanh co đến tận đảo cồn; điện quế, cung lan bày ra cái thể thế của núi non.
Mở rộng cửa tô; cúi xem cột chạm.
Đồng núi trông rộng khắp; sông đầm nhìn hãi kinh.
Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc.
Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.
Cầu vồng tan, cơn mưa tạnh; vẻ rực sáng, suốt đường mây.
Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.
Thuyền câu hát ban chiều, tiếng vang đến bến Bành Lễ.
Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương.
Khúc ngâm xa xôi sảng khoái; hứng thú phiêu dật bay nhanh.
Tiếng vui phát sinh, gió mát nổi dậy; ca nhẹ lắng chìm, mây trắng lưu lại.
Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch.
Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.
Sẵn bốn điều hay; đủ hai bậc tốt.
Ngắm trông khắp cả khoảng trời; vui chơi hết ngày nhàn rỗi.
Trời cao, đất xa, biết vũ trụ rộng vô cùng.
Hứng hết, buồn về, hiểu đầy vơi là có số.
Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây.
Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi.
Quan san khó vượt, nào ai sót thương người lạc lối ?
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương.
Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào.

Than ôi!
Thời vận chẳng bình thường; đường đời nhiều ngang trái.
Phùng Đường dễ thành già cả; Lý Quảng khó được phong hầu.
Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng phải không vua hiền thánh.
Lương Hồng phái náu miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.
Nhờ được: người quân tử vui cảnh nghèo; bậc đạt nhân biết rõ mệnh.
Tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc.
Lúc cùng hãy nên thêm vững, không rớt chí đường mây xanh.
Uống nước suối Tham, lòng vẫn sáng; ở nơi cùng khổ, bụng còn vui.
Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới.
Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.
Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.
Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.
Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.
Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.
Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.
Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.
Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.
Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân mà tự tiếc.
Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.

Than ôi!
Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.
Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.
Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.
Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.
Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.
Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.
Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.

Bên sông, đây gác Đằng Vương.
Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ?
Cột rồng Nam Phố mây bay.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.

                                  Trần Trọng San dịch

 

1u2xwc1d20zgsoul3c9_500

                     

                Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.

 

Bản dịch thơ của Mai Lăng:

 

 

Trước Nam Xương sau Hồng Đô phủ,
Đối Ngũ Hồ hội tụ ba sông.
Nam Kinh chắn, Âu Việt thông,
Sao chia Dực Chẩn, đất vòng Hành Lư.
Đây cảnh sắc đẹp như thiên bảo,
Ánh rồng bay sao Đẩu sao Ngâu,
Địa linh nhân kiệt từ lâu,
Nhà trên Tử Trĩ, giường đâu Trần Phồn.
Đất Hùng Châu sương dồn móc dội,
Trang tuấn tài dong ruổi như sao.
Đài mương Di Hạ liền giao,
Yêu kiều khách chủ trải vào đông nam.
Đô đốc Diêm, đã nhàm tiếng tốt,
Hành quân xa, kích buộc nơ hồng.
Tân quan mô phạm Vũ công,
Áo khăn thân khoát, xe rông chỗ này.
Mười tuần rảnh, bạn tày mây rỡ,
Đón dặm ngàn, khắp chỗ bạn thân.
Phụng giao cao vượt đằng vân
Ấy tài họ Mạnh bút vần từ chương.
Lằng sét tía, màn sương trong tỏ,
Như tiết Vương, vũ khố quản cai.
Gia quân chúa tể cõi ngoài,
Đất thiêng, nhân vượt đường dài thử qua
Gặp tiệc đây, nào ta hay biết,
Tháng chin giờ, vào tiết ba thu.
Non chiều tía khí âm u,
Sắc trong hồ lạnh, rạch khu cạn dần.
Cảnh gò cao ngựa rần xe vượt,
Đất con vua tìm được quán tiên.
Cao xanh đài lớp lớp liền,
Vươn mình đâm thẳng tới miền không trung.
Bóng gác bay, linh lung đỏ ối,
Tỏa lửng lưng, chẳng tới đất bằng.
Bến cò bến vịt thênh thang,
Uốn quanh đảo lớn, kéo sang bãi cồn

Hình thể núi, cung lan điện quế,
Mở cửa thêu, xem vẻ kèo hoa.

Núi đồng nhìn rộng bao la,
Sông đầm mắt mở thấy mà hãi sao.
Đầy mặt đất, biết bao cổng ngõ,
Ấy những nhà, chuông gõ bữa ãn,
Thuyền to thuyền nhỏ bến giăng,
Rồng vàng sẻ biếc trục lăn vẽ vời.
Cầu vồng biến, mưa thời đã dứt,
Thấu đến cùng, sáng rực đường mây.
Ráng chiều cò lẻ cùng bay,
Nước thu trời rộng là đây, một màu.
Chiều thuyền cá, lâu lâu vẳng hát,
Tiếng hát đưa phảng phát bến Bành.
Nhạn bầy sợ lạnh chao quanh,
Tiếng kêu đứt đoạn trên thành Hành Dương.
Buông vạt áo, lòng vương vấn lạ,
Hứng khởi lên nhàn hạ biết bao.
Tiếng vui gió mát lao xao,
Đứng yên mây trắng đọng vào lời ca.
Vườn Kỳ Viên, trúc pha xanh ngát,
Rượu xứ Bành, khí nhạt lan dần.
Rắc lên sông Nghiệp đỏ rần,
Rực lên tia sáng bút thần Lâm Xuyên.
Bốn điều tốt, cảnh thiên tâm sự,
Thảy điều lành, khách chủ hai ngôi.
Mắt trông khắp cả vùng trời,
Tột cùng vui vẻ, cuộc chơi cả ngày.
Trời cao thâm, đất dày tột bậc,
Vũ trụ hay, rằng thật vô ngần.
Vui đi buồn lại đến gần,
Đầy vơi mới biết có phần số thôi.
Ngóng Trường An , gầm trời lưng lửng,
Hướng về Ngô, mây lững thững bay.
Địa hình vô tận là đây,
Biển nam, sao bắc trụ bày trời xa.
Quan san hiểm, vượt qua không thể,
Ai xót thương, cho kẻ lạc miền.
Tha hương bèo bọt có duyên,
Cửa Vua không thấy, lầu Tuyên năm nào.
Không thời vận, đường bao trắc trở,
Phùng dễ già, Lý khó phong hầu.
Trường Sa Gỉa Nghị nằm lâu,
Chúa hiền vua thánh, phải đâu không còn.
Cảnh Lưu Hồng mỏi mòn Hải Khúc,
Há đâu là chẳng lúc minh quân,
Chẳng qua quân tử an bần,
Tận tường số mệnh, đạt nhân ấy mà.
Phải mạnh lên lúc đà có tuổi,
Nên hiểu lòng cho lão tóc sương.
Lúc cùng càng phải kiên cường,
Không nên làm lỡ bước đường mây xanh.
Uống suối Tham, tâm sanh sáng láng,
Nơi khốn cùng lại đáng hân hoan,
Biển bắc xa, cỡi gió sang,
Mé đông đã khuất, cành tang chẳng chầy.
Lòng báo quốc, Mạnh đây cao khiết,
Khóc đường cùng, Nguyễn tiết há dây.
Thư sinh ba thước Bột này,

Chẳng xin dây chắc, chẳng tày Chung Quân.
Vung đầu bút, bao lần mong ước,
Cỡi gió dài, Tông Xác mến thôi.
Trăm năm trâm hốt bỏ rồi,
Dặm muôn công việc hôm mai theo đà.
Cây báu Tạ, tuy là khôn sánh,
Cũng được luôn họ Mạnh cận kề.
Ngày sau, sân rảo bước về,
Chắp thêm lời đối, trọn bề Lý Ngư.
Áo long môn, sáng chừ vui gởi,
Chẳng gặp Dương, tiếc bởi Lăng Vân.
Chung Kỳ gặp lại nên gần,
Tấu chơi Lưu Thủy còn ngần ngại chi.
Nơi danh thắng, dễ gì tồn tại,
Cuộc tiệc sang, có lại được đâu.
Lan Đình mai một từ lâu,
Còn vườn Tử Trạch ra màu gò hoang.
Lúc biệt ly, đôi hàng nay tặng,
Hân hạnh thay ! ơn nặng tiễn đưa.
Lên cao đặt phú làm thơ,
Đấy là công việc cậy nhờ quý ông.
Ngắn ý quê, hết lòng kính cẩn,
Phú một bài, bốn vận nên rồi.
Sông Phan rẩy nước xin mời,
Nghiêng mây từ đất tận trời biển đông.
Gác Đằng Vương, bên sông cao nóc,
Hết múa ca, tiếng ngọc phôi phai.
Cột hoa Nam Phố mây mai,
Rèm châu chiều cuốn, non đoài hạt rơi.
Trải mấy thu, sao dời vật đổi,
Mây ánh đầm, ngày dõi lửng lơ.
Gác đây, đế tử đâu giờ,
Trường Giang vẫn chảy hững hờ ngoài hiên.

 

 

 

 

Bản dịch thơ của Đinh Vũ Ngọc


 

Nam Xương quận cũ
Phủ mới Hồng Đô
Sao trời Dực, Chẩn chia ngôi
Hành, Lư hai núi tiếp đôi hai miền
Có năm hồ nối liền Âu Việt
Có ba sông vây siết Kinh Man
Báu trời hoa vật rõ ràng
Ánh rồng rực chiếu huy hoàng Đấu, Ngưu.
Đất linh thiêng nên người tài trí
Giường Trần Phồn, Từ Trĩ hạ xong
Hùng châu sương phủ
Tinh tú ruổi dong
Đài hào Di, Hạ gối lòng
Khách, chủ sáng đẹp vàng ròng Đông nam
Diêm đô đốc vốn trang thanh lịch
Tiếng tăm theo khải kích vang lừng.
Uy nghi Thái thú Văn Quân
Gương mẫu châu mới tạm dừng xe đây
Mười tuần nhàn rỗi
Bạn tốt như mây
Vạn dặm đón nhau
Khách hiền chật ghế
Mạnh học sĩ tài hoa trăm vẻ
Nguồn văn chương phượng múa rồng bay
Vương tướng quân thao lược đủ đầy
Kho võ khí sương thanh chớp tía
Thăm cha làm quan tể
Nên đất lành tìm đi
Tuổi trẻ biết chi
Được hầu yến tiệc
Tháng chín theo thời tiết
Tháng thứ ba thu tàn
Mương rảnh khô khan
Nước đầm trong lạnh
Ảnh khói đọng
Núi chiều hồng
Ngựa xe đường cái ngắm trông
Gò cao dừng lại hỏi phong cảnh nầy
Bãi trường đế tử còn đây
Tìm ra được quán Tiên ngày xưa xa
Tầng tầng cao ngất
Trên mây phủ la đà
Son chảy gác bay
Dưới lìa xa đất lạnh
Bến Hạc, bãi Phủ cồn đảo bọc
Cung Lan, điện Quế núi non che
Vừa mở rộng màn the
Đã phô bày cảnh vật
Núi đồng trải, tầm nhìn ngây ngất
Sông đầm sâu, ánh mắt kinh hoàng
Dinh thự dựng nghênh ngang
Nhà chuông rung vạc đặt
Thuyền bè neo tấp nập
Trục sẻ xanh rồng vàng 

Nào ai thương kẻ bôn ba lạc đường?
Chừ đây bèo nước tương phùng
Cũng đều là khách tha hương xa nhà
Tưởng nhớ chốn cửa vua
Khó mà trông thấy được
Phụng chiếu nơi Tuyên Thất
Chẳng biết đến năm nào
Ô hô!
Thời vận đổi thay sao !
Đường đời nhiều điên đảo
Phùng Đường dễ già lão
Lý Quảng khó phong hầu.
Trường Sa, Giả Nghị chịu đày
Há chẳng phải là vua hiền thánh?
Biếm Lương Hồng nơi biển lạnh
Há chẳng phải thiếu thời quang minh?
Nhờ được
Quân tử vui nghèo
Đạt nhân rõ mệnh
Tuổi già cả càng nên vững mạnh
Xin hiểu lòng ông lão bạc đầu!
Lúc khốn cùng vẫn cứ kiên cường
Không nhụt chí trên đường mây biếc
Dẫu uống nước suối Tham
Sáng trong còn phân biệt
Dẫu sống nơi rãnh cạn
Gò bó vẫn an vui
Biển Bắc tuy xa xôi
Gió cao còn tới được
Vừng Đông dù xế khuyết
Bãi dâu chẳng mất nào
Mạnh Thường đó thanh cao
Cũng dạt dào tấm lòng cứu nước
Nguyễn Tịch kia cuồng ngược
Há nỉ non tiếng khóc đường cùng
Bột này ba thước thân hình
Chỉ là gã thư sinh bé dại
Không đường xin dây dài một sãi
Như Chung Quân trai trẻ thuở nào
Gác bút, lòng những ước ao
Cuối ngọn gió dài Tông Xác
Cõi trăm năm bỏ rơi trâm hốt
Việc sớm chiều ngoài vạn dặm lo xa
Không là cây báu Tạ gia
Cũng cùng hàng xóm Mạnh bà gần nhau
Trước sân rảo bước ngày sau
Sánh cùng ông Lý góp câu luận bàn
Sáng nay, tay áo gọn gàng
Gởi tên lên trước cửa Rồng, mừng thay!
Không cùng Dương Ý gặp nhau
Thiên Lăng Vân đọc tiếc đau cả lòng
Chung Kỳ gặp gỡ nhau xong
Tấu khúc Lưu Thuỷ còn mong chờ gì?
Than ôi!
Chốn danh thắng mấy khi còn mãi
Tiệc vui không trở lại bao giờ
Lan đình chữ đã hoang sơ
Bãi cồn Tử Trạch trơ vơ tháng ngày
Mấy lời viết lúc chia tay
Xin kính thừa ân Diêm chủ
Còn như lên cao làm phú 

Kính mong ở phần quý ngài
Tình cảm đơn sai
Viết bài tựa ngắn
Một lời vừa bén
Bốn vận xin hầu:

Gác Đằng cao ngất bên sông sâu
Múa hát đàn ca vắng bấy lâu
Nam phố mây mai in cột chạm
Tây sơn mưa xế cuốn rèm châu
Mây trôi đầm lặng soi bao thuở
Vật đổi sao dời trải mấy thâu
Trong gác con vua đâu vắng bóng?
Hiên ngoài sông nước vẫn trôi mau.

 

 

 

Đồng Tước kỹ kỳ 1

 

Kim Phượng lân Đồng Tước,
Chương hà vọng Nghiệp thành.
Quân vương vô xứ sở,
Đài tạ nhược bình sinh.
Vũ tịch phân hà tựu,
Ca lương nghiễm vị khuynh.
Tây lăng tùng giả lãnh,
Thùy kiến ỷ la tình.

 

 

Dịch thơ:

 

Lầu Kim Phượng cạnh đài Đồng Tước
Đầu sông Chương mãi hướng Nghiệp thành

Thấy đâu động tỉnh quân vương
Đài xưa còn ủ những thương yêu vì
Tiệc rượu múa lắm khi trước đã
Cầu xướng ca chưa ngã chưa nghiêng
Đồi tây lạnh lẽo mấy miền
Những người áo lụa niềm riêng một thì.

 

                           Phan Lang dịch

 

Đồng Tước kỹ kỳ 2

 

Thiếp bản thâm cung kỹ,
Tằng Thành bế cửu trùng.
Quân vương hoan ái tận,
Ca vũ vị thùy dung.
Cẩm khâm bất phục tị,
La y thùy tái phùng.
Cao đài tây bắc vọng,
Lưu thế hướng thanh tùng.

 

 

 

Dịch thơ:

 

Thâm cung em vốn là ca kỹ
Khóa cổng Tằng Thành luỹ chín tầng
Quân vương tình giảm mười phần
Sửa sang dáng dấp mà gần được ai
Áo gấm kia đâu còn đẹp mãi
Nọ lụa là có phải may thêm ?
Đài cao tây bắc lạnh lùng
Lệ em chảy đến đám tùng trơ xanh

 

                       Phan Lang dịch

 

 

Tư quy 

 

Trường Giang bi dĩ trệ
Vạn lý niệm tương qui
Hướng phục cao phong vãn
Sơn sơn hoàng diệp phi


Dịch nghĩa:

 

Nghĩ lúc trở về


Nỗi thương đau đã lắng đọng trên sông Trường Giang.
Ở nơi xa muôn dặm mong nhớ lúc trở về.
Huống chi lúc chiều tà, có cơn gió thổi lồng lộng
Lá vàng tung bay trên núi non trùng điệp



   Dịch thơ : 

 

Trường Giang sầu lắng trong lòng
Đường xa muôn dặm nhớ mong ngày về
Chiều buông gió lộng lê thê
Lá vàng quanh núi bốn bề tung bay

                                Hải Đà dịch 

 

 

Giang Nam lộng

 

Giang Nam lộng,
Vu Sơn liên Sở mộng,
Hành vũ hành vân kỷ tương tống.
Dao hiên kim ốc thượng xuân thì,
Ngọc đồng tiên nữ vô kiến kỳ.
Tử lộ hương yên diểu nan thác,
Thanh phong minh nguyệt dao tương tư.
Dao tương tư, thảo đồ lục.

 

Dịch thơ:

 

Giang Nam lộng

 

Giang Nam đùa dở

Vu Sơn nối liền mộng Sở

Tiếp tiếp mây mưa chia tay mấy độ

Hiên ngọc nhà vàng xuần đế rộ

Tiên nữ ngọc đồng không kỳ hẹn ước

Sương thơm khói biếc khó mong

Gió đông trăng bạc mơ mòng nhớ nhau

Mơ mòng nhớ nhau, đường xanh cỏ biếc một màu.

                                        Phan Lang dịch

Ky xuân

 

Khách tâm thiên lý quyện,
Xuân sự nhất triêu quy.
Hoàn thương bắc viên lý,
Trùng kiến lạc hoa phi.

 

Dịch thơ:

 

Giữ xuân

 

Lòng khách ngàn dặm mỏi

Ánh xuân về sớm nay

Thương tâm trong vườn bắc

Lại thấy bóng hoa bay.

 

                         Hồng Hà dịch

 

Lạc hoa lạc

 

Lạc hoa lạc, lạc hoa phân mạc mạc.
Lục diệp thanh phu ánh đan ngạc,
Dữ quân bồi hồi thượng kim hợp.
Ảnh phất trang giai đại mạo diên,
Hương phiêu vũ quán thù du mạc.
Lạc hoa phi, liêu loạn nhập trung duy.
Lạc hoa xuân chính mãn,
Xuân nhân quy bất quy.

 

Dịch thơ:

 

Hoa tàn rụng

 

Hoa tàn rụng, hoa tàn rụng cánh bay tung

Lá xanh cuống lục ánh hồng đài hoa

Bồi hồi dưới bóng vàng pha

Tiếng hoa phảng phất thềm xà cừ ru

Hương thơm trướng múa thù du

Hoa bay, bay nhập mịt mù màn vây

Một mùa xuân chín tràn đầy

Người xuân hứa đến mà nay không về.

                                            

                                                  Phan Lang dịch

 

 

Phổ An Kiếm Âm đề bích

 

Giang Hán thâm vô cực,
Lương Mân bất khả phan.
Sơn xuyên vân vụ lý,
Du tử kỷ thời hoàn?

 

 

Dịch thơ:

 

Đề vách núi Kiếm Âm ở Phổ An

 

Giang Hán tin không đến

Lương Mân vào khó ghê

Mây mù sông núi hiểm

Du tử lúc nao về ?

 

                     Nguyễn Hà dịch

 

 

Tống Đỗ thiếu phủ chi nhậm Thục Xuyên

 

Thành khuyết phụ Tam Tần,
Phong yên vọng Ngũ tân.
Dữ quân ly biệt ý,
Ðồng thị hoạn du nhân.
Hải nội tồn tri kỷ,
Thiên nhai nhược tỉ lân.
Vô vi tại kỳ lộ,
Nhi nữ cộng triêm cân.

 

Dịch xuôi:

 

Tiễn Đỗ Thiếu phủ nhậm chức ở Thục Xuyên


Quan thiếu phủ họ Đỗ đi làm việc ở Thục Xuyên
Từ kinh thành ra che phủ cho xứ Tam Tần
Trông miền Ngũ Tân trong sương gió mịt mù
Tôi cùng ông đều có cái tình ý biệt ly
(Vì) đều có những kẻ làm quan trôi nổi nơi xa xôi


Trong bốn biển vẫn còn người tri kỉ
Thì ở góc trời xa vẫn gần gũi như bên cạnh
Ở ngõ rẽ thôi đừng làm
Như người con gái khóc ướt cả khăn


 

 

 

Dịch Thơ :


Kinh khuyết giữ Tam Tần
Gió mây ngóng ngũ tân
Cùng lênh đênh bể hoạn
Nên bịn rịn đưa chân
Bốn bể còn tri kỷ
Góc trời vẫn thiết thân
Đừng như nhi nữ nhé
Lối rẽ lệ dầm khăn

                                      KD

 

Biệt nhân kỳ 2

 

Giang thượng phong yên tích

Sơn u vân hạ đa

Tống quân Nam phố ngoại

Hoàn vọng tượng như hài.

 

Dịch thơ: 

 

Chia tay người kỳ 2

 

Núi thẳm mây mù đọng,
Sông dài khói sóng bao.
Tiễn anh rời Nam Phố, 

Dõi mắt biết làm sao!

 

            Cao Tự Thanh dịch


 

Thánh Tuyền Yến

 

Phi khâm thừa thạch đắng
Liệt tịch phủ xuân tuyền
Lan khí huân sơn chước
tùng thanh vận dã huyền
Ảnh phiêu thùy diệp ngoại
Hương độ lạc hoa tiền
Hứng cấp lâm đường vãn
Trùng nham khởi tịch yên 


Dịch xuôi

 

Dự tiệc ở Thánh Tuyền


Dự tiệc ở đình Thánh tuyền
Vén áo ngồi lên chiếc ghế đá
Người trong bàn tiệc cúi xem suối xuân
Mùi thơm hoa lan quyện vào rượu núi
Tiếng gió thông hoà với khúc nhạc quê
Hình bóng phơ phất ngoài lá rũ
Hương bay qua trước hoa rơi
Rừng suối về chiều càng thêm hứng thú
Khói hoàng hôn bay lèn trong các lớp núi

Dịch thơ :


Vén áo ngồi lên đá
Cúi đầu ngó xuống khe
Lan hoà thơm rượu núi
Thông quyện tiếng đàn quê
Lá rũ hình lay động
Hoa rơi hương thoảng về
Rừng chiều thêm thi vị
Dâng khói mờ sơn khê

 

 

Thục Trung Cửu Nhật

 

Cửu nguyệt cửu nhật vọng hương đài
Tha tịch tha hương tống khách bôi
Nhân tình dĩ yếm nam trung khổ
Hồng nhạn na tòng bắc địa lai


Dịch xuôi


Ngày trùng cửu ở xứ Thục


Ngày mùng chín tháng chín (lên) đài trông quê
Chiều nào ở nơi đất khách nâng chén tiễn người đi
Tình đời đã chán chường nỗi khổ chốn Nam trung
Chim hồng nhạn từ cõi bắc còn đến đây làm gì ?


Dịch thơ:


Trùng cửu lên đài ngóng quê hương
Xứ lạ, rượu sầu tiễn người đi
Chán chường, thân khổ, Nam trung xứ
Đất bắc Nhạn hồng đến mà chi ?

 

                                                    KD

 

 

 

 

 

[d] TRAO ĐỔI VỀ SỰ KIỆN “VƯƠNG BỘT TỬ NẠN NƠI NÀO ?” 

GIỮA HỌC GIẢ THÁI DOÃN HIỂU VÀ ĐOÀN NHÀ VĂN TRUNG QUỐC.

 

(Tường thuật của pv báo Văn Nghệ đăng trên số 47 ra ngày 20-11-1993)

 

Sáng 2-10-1993, Đoàn Nhà văn Trung Quốc gồm 5 nhà văn đang ở thăm nước ta do ông Trịnh Bá Nông – Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà văn Trung Quốc, Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Trung Quốc dẫn đầu đến thăm Văn phòng thường trực các tỉnh miền Nam của tuần báo Văn Nghệ, 43 Đồng Khởi, Tp Hồ Chí Minh. Toà soạn  mời ông Thái Doãn Hiểu trao đổi trực tiếp với các nhà văn Trung Quốc về sự kiện “Vương Bột tử nạn nơi nào ?”.

 

Nhà văn Trịnh Bá Nông đặt vấn đề:

 

- Với vụ Vương Bột, đồng chí đã làm cho chúng tôi sửng sốt và vui mừng, vì đã tìm ra được một ngôi mộ tổ sáng giá. Chúng tôi cho rằng “đã giải đáp được những nghi vấn hơn nghìn năm nay”. Nhưng sau đó báo chí Trung Quốc đã viết bài trao đổi, phản bác không những riêng đồng chí mà còn bác cả luận thuyết có tính chất truyền thống về cái chết bí ẩn của thi hào Vương Bột. Là người phát hiện ra nơi Vương Bột tử nạn tại cửa biển Nghệ An, đồng chí có ý kiến gì về chuyện này ?

 

Thái Doãn Hiểu từ tốn:

 

- Có. Tôi có theo dõi nên đã được đọc bài Có phải Vương Bột chết ở tuổi 20 ? của tiên sinh Ngô Trọng Tương đăng trên tạp chí Liêu Vọng số ra ngày 6-1-1992 (mà thực chất là những luận thuyết của giáo sư trường Đại học Sơn Tây Hà Lâm Thiên).

Nếu những luận thuyết đó thật sự có giá trị về mặt văn bản học thì việc Vương Bột theo cha vế Lục Hợp (Giang Tô) sống thêm được gần 10 năm nữa là một huyền thoại kỳ thú !

Nhưng, trên thực tế, các học giả Trung Quốc làm thế nào để chứng minh được đó là những tài liệu gốc, trong khi nó chỉ là những sao chép của người đời sau dẫu đã được sưu tầm rất công  phu ở Nhật hay Mỹ ? Tôi nghĩ: có lẽ vì thương cảm Vương Bột mà một ai đó cứ dàn cảnh làm thơ nối điêu vào thi nghiệp của Vương để chàng sống  mãi trong  lòng ngưỡng vọng của mình ? Và, Hà tiên sinh, Tô tiên sinh đã dựa vào cái hồ sơ giả đó – nói theo các nói hiện đại của ngành tư pháp để trêu chọc người đời chắng ? Nếu quả Vương có sống thêm được thập niên nữa, với tâm trạng của một kẻ sĩ phạm tội giết  người bị kết án tử hình, rồi được Lữ Hậu nể tài tha, cha bị  đày vì vạ lây, Vương phải để lại hàng nghìn bài thơ chứ phải đâu chỉ có lèo tèo có bấy nhiêu bài trong Đường thi toàn tập và vài ba bài do giáosư Hà Lâm Thiên sưu tầm được. Một người lỗi lạc như Vương cho dẫu mai danh ẩn tích, chôn thân vào chốn lâm tuyền thì trong mười năm sống thêm ấy nó cũng phải thòi cái mũi dùi Mao Toại ra chứ ?

 

Điều đáng ngạc nhiên là các thiên sinh đã “cãi” cả Dương Quýnh - bạn chí thân và là nhà thơ nổi tiếng đồng thời với Vương khi ông này nghe tin dữ bạn bất đắc kỳ tử ngoài bể Đông đã cầm một nắm nhang xá ra bể, rồi cẩn thận gom nhặt thi cảo của chàng in thành sách với bài tựa ngậm ngùi thương cảm còn lưu truyền rành rành ra đó trên giấy trắng mực đen ?

 

Nói gì thì nói, các tiên sinh Trung Quốc vẫn chưa tìm ra nơi  Vương Bột tử nạn, trong lúc chúng tôi đã có trong tay những cứ liệu về di chỉ Vương Bột ở xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Nghệ Tĩnh lập tức ra một kỷ yếu Thần thi Vương Bột, trong đó tập hợp hàng chục bài viết của người trong tỉnh chứng kiến hoặc gián tiếp kể về ngôi đền Phúc Vị - nơi thờ Vương Bột. Đáng chú ý có bài của thầy trò trường Sư phạm Liên khu Bốn đi điền dã về ngôi đền năm 1958. Đặc biệt có một bài nghiên cứu của một học giả người Pháp viết khá tỉ mỉ về sự kiện này từ cuối thập niên thứ hai của thế kỷ XX.

 

Nhà thơ Bành Gia Cẩn hỏi:

 

-  Thế theo đồng chí, Vương Bột chết ở tuổi nào?

 

-  Theo tôi, Vương Bột chết ở tuổi hăm sáu.

 

Các nhà văn Trung Quốc nhìn nhau, nghi vấn.

 

- Tại sao cho đến nay, đồng chí vẫn chưa cho công bố các tài liệu ? – Nhà Đông phương học Lợi Quốc –  giáo sư Đại học Bắc Kinh nôn nóng hỏi – Trong bài viết chúng ta vừa nhắc đến, học giả Ngô Trọng Tương có nói là học giả Việt Nam “chưa đưa ra được bao nhiêu tài liệu có giá trị”, đồng chí nghĩ gì về vấn đề này ?

 

- Đâu còn đó cả. Vả lại, nhiệm vụ của chúng tôi dường như đã xong với tư cách là người phát hiện, còn bây giờ là công việc của các nhà khảo cổ học, kiến trúc sư, sử gia… Nhưng do cảm hoài với Vương Bột, tôi đã viết thành một cuốn sách với nhan đề là THẦN THI VƯƠNG BỘT VANG VỌNG CỦA PHƯƠNG ĐÔNG. Vâng, đây quý vị  có thể xem bản thảo đánh máy tôi có mang theo. Phần phụ lục có tư liệu, hiện vật lịch sử, các hoạt động của tỉnh Nghê Tĩnh về sự kiện Vương Bột.

 

Nhà văn Trịnh Bá Nông:

 

-  Bao giờ đồng chí cho in quyển sách quý này ?

 

-  Trên cơ bản quyển sách đã viết xong, có một vài cứ liệu chưa được ổn lắm về mặt khoa học. Tôi rất thiếu tài liệu và thực tế về phía bên các bạn. Giá được đi điền dã một chuyến sang bên ấy thì tốt quá cho không riêng quyển sách này mà còn một công trình khác nữa, đó là quyển LƯỠNG QUỐC TRẠNG NGUYÊN MẠC ĐỈNH CHI. Quyển sách ấy tôi vừa viết xong từ mùa thu 1991, nhưng cho đến nay vẫn nằm trong dạng bản thảo bởi vì chương Náo động thiên triều kể về cuộc đi sứ năm 1308 của đoàn sứ bộ nhà Trần do Mạc Đỉnh Chi - ông tổ của dòng họ chúng tôi - dẫn đầu rất khó viết. Tôi làm sao có thể hư cấu ra được và ai cho phép hư cầu khi khảo cứu ? về Yên Kinh (tức Bắc Kinh) về triều đình với bá quan văn võ của vua Nguyên Thế Tổ. Rồi chuyện ông ấy theo sứ thần Cao Ly sang Bình Nhưỡng, lấy vợ, đẻ con và để lại một dòng con cháu ở bên ấy ra sao ? Toàn là những chuyện rắc rối mà trong gia phả tộc Mạc chỉ ghi hết sức vắn tắt (11).

 

-  Lại có cả những chuyện thần thoại như thế kia ư ?

 

-  Vâng, có chuyện như thế đấy. Thế gian lắm chuyện đến bất ngờ… Nhưng xin trở lại với vần đề chính – Thái Doãn Hiểu khẩn khoản - Tôi nghĩ là bộ Văn hóa hai nước nên quan tâm tích cực  đến vấn đề này, sớm giúp trùng tu ngôi đền Vương Bột. Tôi xin hứa là khi ngôi đền khánh thành, quyển sách của tôi cũng sẽ  in xong như một món quà tặng cho các du khách thập phương đến viếng đền.

 

Nhà nghiên cứu văn học Thái Doãn Hiểu đã vui vẻ tặng Đoàn Nhà văn Trung quốc bức ảnh màu khổ lớn tượng Thi hào Vương Bột do chính tay ông chụp (10)  và một số tư liệu hiếm về ngôi đền Phúc Vị. Các nhà văn Trung Quốc rất cảm kích khi cầm trên tay các món quà tặng: Các tác phẩm văn học Trung Quốc in bằng tiếng Việt như Mái Tây (Tây sương ký), Tục ngữ Hoa - Việt, Tuyển tập thơ Tống, truyện ngắn hiện đại Trung Quốc Nước mắt của mẹ… mà nhà nghiên cứu Việt Nam đã cộng tác với Nhà xuất bản Văn Học, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh làm ra, cùng những tác phẩm biên khảo khác do vợ chồng ông dày công soạn.

 

 

 

 

 

----------------------------------------------------

 

(1) Ba vị kia là: Lạc Tân Vương, Dương Quýnh và Lư Chiếu Lân

(2) Vương Thông dưới tên chữ là Văn Trung Tử - nhà triết học thời Tùy.

(3) Gác trở thành nổi tiếng hơn 13 thế kỷ nay của Trung Quốc. Đến đời Mimh đổ nát  được trùng tu lại lấy tên là Tây Giang đệ nhất lâu. Đến đời Thanh lại lấy tên cũ. Bị phá tan tành sau 9 giờ huyết chiến giữa quân đội Trùng Khánh và quân đội Nhật trong cuộc chiến tranh Trung - Nhật, 1939.

(4) Có sách chép là Dữ, có sách lại chép là Phù.

(5) Cuốn thứ nhất trong bộ Chân dung các nhà văn qua giai thoại (6 tập)

(6)  Lần tôi trở về mới nhất là tháng 8-2009 thì thấy hiện trên nền đất cũ là một nhà gửi trẻ. Vùng đất này hiện trở thành đất vàng nhưng nhưng đất của thần thánh không ai dám mua.

(7) Tả Ao tên thật là Nguyễn Đức Huyền (sách Tang thương ngẫu lục), vì là người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh nên gọi là thầy địa lý Tả Ao. Tả Ao sống vào thế kỷ XVIII.

(8) Lần cuối cùng đền Vương Bột được dựng lại sau chiến tranh là dưới thời nhà Nguyễn năm 1854 (theo trụ biểu đá còn lại sau đền Vương Bột)

(9) Chữ dùng của tạp chí Liêu Vọng.

(10) Một sai lầm nghiêm trọng của Kỷ yếu Thần thi Vương Bột, ảnh tượng của Vương Bột là tượng giả làm bằng thạch cao.

(11) Chuyến thăm Trung Quốc đã được thực hiện vào tháng 7-2005. Tôi cùng Hoàng Liên đã đi điền dã đến 5 thành phô: Thượng Hải, Tô Châu, Hàng Châu, Vô Tích, Bắc Kinh với quãng đường 5.000 km bằng máy bay, xe hơi, tàu hỏa, thu hoạch đượ c rất nhiều tài liệu quý.